Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Saturday 29-03-2025 9:34am
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
Lê Thị Quỳnh – IVFMD SIH – Bệnh viện Phụ sản Quốc tế Sài Gòn

TỔNG QUAN
Vô sinh nam là một vấn đề lâm sàng có ý nghĩa quan trọng đối với các cặp vợ chồng gặp khó khăn trong việc có thai. Tuy nhiên, tầm quan trọng của chất lượng tinh dịch đối với sức khỏe cộng đồng có thể vượt ra ngoài phạm vi khả năng sinh sản. Ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy mối liên hệ giữa vô sinh nam và chất lượng tinh dịch với tỷ lệ mắc một số bệnh lý cao hơn và tuổi thọ ngắn hơn. Một số nghiên cứu đã báo cáo tỷ lệ tử vong cao hơn ở nam giới vô sinh do yếu tố nam, trong khi các nghiên cứu khác chỉ ghi nhận tỷ lệ tử vong tăng ở nam giới vô tinh.
Một nghiên cứu theo dõi dài hạn trên 43.277 nam giới cho thấy tỷ lệ tử vong giảm khi mật độ tinh trùng tăng lên đến ngưỡng 40 triệu/ml, cao hơn đáng kể so với ngưỡng tham chiếu hiện tại của Tổ chức Y tế Thế giới (World Health Organization - WHO) là 16 triệu/ml. Tương tự, tỷ lệ tử vong cũng giảm khi tỷ lệ tinh trùng di động và hình dạng bình thường tăng lên.
Nghiên cứu của Eisenberg và cộng sự (2014) cho thấy điều chỉnh các bệnh lý đi kèm làm giảm mối liên quan giữa vô sinh và tỷ lệ tử vong, gợi ý rằng sức khỏe kém có thể là yếu tố góp phần. Tuy nhiên, nghiên cứu này có thời gian theo dõi ngắn (7,7 năm) và số lượng trường hợp tử vong hạn chế, khiến vai trò của các bệnh lý trước chẩn đoán vô sinh chưa rõ ràng.
Hầu hết nghiên cứu về khả năng sinh sản nam giới và tỷ lệ tử vong tập trung vào chẩn đoán vô sinh, hoặc dấu hiệu sinh sản của cặp đôi, ít nghiên cứu đánh giá trực tiếp chất lượng tinh dịch. Trong khi đó, ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy chất lượng tinh dịch liên quan đến nguy cơ bệnh tật và tuổi thọ, ngay cả ở mức trên ngưỡng chẩn đoán vô sinh. Do đó, chất lượng tinh dịch có thể là dấu ấn sinh học quan trọng cho sức khỏe nam giới, bao gồm cả những người có khả năng sinh sản đã được chứng minh.
Dựa trên cơ sở dữ liệu quy mô lớn về chất lượng tinh dịch với thời gian theo dõi lên đến 50 năm, các tác giả đã tiến hành nghiên cứu mối liên hệ giữa chất lượng tinh dịch và tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân, có điều chỉnh các chẩn đoán bệnh viện trong 10 năm trước khi thực hiện xét nghiệm tinh dịch.
 
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu này sử dụng Cơ sở dữ liệu chất lượng tinh dịch Đan Mạch (DaSe), bao gồm  78.284 nam giới (18-65 tuổi) cung cấp mẫu tinh dịch từ 1963-2015 tại Copenhagen, có thông tin về mật độ tinh trùng và thời gian kiêng quan hệ. Một nhóm nhỏ hơn (59.657 nam giới) có dữ liệu sức khỏe 10 năm trước khi lấy mẫu. Họ được giới thiệu bởi bác sĩ do nghi ngờ vô sinh, đại diện cho nhiều mức chất lượng tinh dịch.
Đánh giá chất lượng tinh dịch
Nam giới được yêu cầu kiêng xuất tinh 3-4 ngày trước khi lấy mẫu. Mẫu được lấy tại phòng thí nghiệm hoặc tại nhà và đưa đến phòng thí nghiệm trong vòng 1 giờ.
Phòng thí nghiệm sử dụng các phương pháp phân tích tiêu chuẩn hóa, tuân theo hướng dẫn của WHO từ năm 1980. Các mẫu được phân tích trong vòng 1 giờ sau khi xuất tinh. Độ di động được đánh giá bằng kính hiển vi. Hình dạng được đánh giá theo tiêu chí WHO, sau đó là tiêu chí nghiêm ngặt hơn. Tổng số tinh trùng được tính từ thể tích và mật độ, tổng số tinh trùng di động được tính từ tổng số tinh trùng và độ di động.
 
Chỉ mẫu đầu tiên của mỗi người được đưa vào nghiên cứu. Các thông số tinh dịch được phân loại cho phân tích thống kê. Hình dạng được chia thành 6 nhóm phần trăm để phân tích, kết hợp các tiêu chí đánh giá khác nhau.
Đánh giá kết quả
Mẫu tinh dịch đầu tiên của mỗi nam giới được liên kết với sổ đăng ký Đan Mạch qua số định danh cá nhân, cho phép kết nối dữ liệu chính xác. Sổ đăng ký dân sự cung cấp thông tin về tình trạng sống và ngày tử vong hoặc di cư, từ 1965 đến ngày 31 tháng 12 năm 2023.
Thời gian kiêng quan hệ tình dục, năm lấy mẫu và tuổi được phân loại cho phân tích. Trình độ học vấn từ năm 1980 được lấy từ sổ đăng ký Giáo dục dân số, phân loại theo ISCED.
Chẩn đoán bệnh viện từ năm 1977 được lấy từ sổ đăng ký Bệnh nhân quốc gia, mã hóa theo ICD-8 và ICD-10. Các chẩn đoán trong 10 năm trước khi lấy mẫu tinh dịch được nhóm thành 15 nhóm chính để phân tích.
Phân tích thống kê
Nghiên cứu mô tả đặc điểm cơ bản và thông số tinh dịch, trình độ học vấn, chẩn đoán bệnh lý. Tuổi thọ được phân tích bằng phương pháp thời gian sống sót trung bình hạn chế.
Phân tích hồi quy Cox được sử dụng để đánh giá mối liên hệ giữa thông số tinh dịch và tỷ lệ tử vong, có điều chỉnh tuổi, giai đoạn lấy mẫu, thời gian kiêng quan hệ, trình độ học vấn và bệnh lý.
Phân tích độ nhạy được thực hiện để đánh giá tính vững chắc của kết quả, bao gồm phân tích theo tầng bệnh lý và phân tích theo thời gian theo dõi. Phân tích thống kê được thực hiện bằng phần mềm SAS.
 
KẾT QUẢ
Nghiên cứu bao gồm 78.284 nam giới, 11% tử vong trong thời gian theo dõi trung bình 23 năm. Tuổi trung bình khi lấy mẫu tinh dịch là 32, mật độ tinh trùng trung bình 46 triệu/ml.
Nhóm nhỏ hơn (mẫu 1987-2015) cũng có tuổi trung bình 32, theo dõi 20 năm, tỷ lệ tử vong 5,1%. Thông số tinh dịch tương tự, mật độ tinh trùng cao hơn chút ít.
Chất lượng tinh dịch và thời gian sống trung bình
Nam giới vô tinh hoặc có tổng số tinh trùng di động thấp (0-5 triệu) có tuổi thọ trung bình thấp hơn (77,6-78 năm) so với nam giới có số lượng tinh trùng di động cao (>120 triệu, tuổi thọ 80,3 năm), chênh lệch khoảng 2,3-2,7 năm (p<0,001). Sự khác biệt tương tự cũng được ghi nhận ở các thông số tinh dịch khác.
Chất lượng tinh dịch và tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân
Trong tổng số 78.284 nam giới, chất lượng tinh dịch có mối tương quan nghịch với tỷ lệ tử vong, tuân theo quy luật liều lượng-đáp ứng (p<0,001). Nguy cơ tử vong cao hơn ở nhóm vô tinh, nhưng ít rõ rệt hơn so với nhóm có số lượng tinh trùng thấp (0-5 triệu/ml). Cụ thể, nguy cơ tử vong ở nhóm vô tinh là 1,28 (KTC 95%: 1,12-1,46), trong khi ở nhóm tinh trùng thấp là 1,46 (KTC 95%: 1,35-1,59) so với nhóm tham chiếu có số lượng tinh trùng cao (>120 triệu).
Nhóm nam giới lấy mẫu tinh dịch từ 1987-2015 (n=59.657) cho kết quả tương tự, nhưng rõ rệt hơn. Nguy cơ tử vong cao hơn ở nhóm vô tinh và nhóm có số lượng tinh trùng di động thấp.
Sau khi điều chỉnh theo trình độ học vấn và chẩn đoán trước đó, mối liên hệ vẫn còn (p<0,001), nhưng nguy cơ tử vong giảm nhẹ. Tất cả các nhóm có số lượng tinh trùng thấp hơn đều có nguy cơ tử vong cao hơn đáng kể so với nhóm tham chiếu.
 
THẢO LUẬN
Nghiên cứu cho thấy chất lượng tinh dịch thấp liên quan đến tỷ lệ tử vong cao hơn, theo quy luật liều lượng-đáp ứng. Nam giới có lượng tinh trùng di động cao có tuổi thọ dài hơn 2,7 năm so với người có lượng tinh trùng thấp.
Mối liên quan này không bị ảnh hưởng bởi bệnh lý tại thời điểm lấy mẫu. Nghiên cứu này đánh giá trực tiếp chất lượng tinh dịch, cho thấy các thông số tinh dịch là dấu hiệu của tuổi thọ, ngay cả ở mức tinh dịch cao hơn ngưỡng chẩn đoán vô sinh.
Nghiên cứu này là nghiên cứu đầu tiên mô tả mối liên hệ trực tiếp giữa chất lượng tinh dịch và tuổi thọ. Chất lượng tinh dịch kém có thể liên quan đến cả tuổi thọ ngắn hơn và số năm sống khỏe mạnh ít hơn. Mối liên hệ này không hoàn toàn do bệnh lý đã biết, nhưng có thể do các yếu tố sức khỏe tiềm ẩn hoặc nguy cơ chung.
Điểm mạnh và hạn chế của nghiên cứu
Nghiên cứu này có điểm mạnh là sử dụng cơ sở dữ liệu lớn, liên kết với thông tin sức khỏe và theo dõi dài hạn. Chất lượng tinh dịch không bị ảnh hưởng bởi ý định sinh sản, tránh được yếu tố gây nhiễu.
Hạn chế của nghiên cứu là thiếu thông tin về hành vi sức khỏe, mặc dù trình độ học vấn đã được điều chỉnh. Thông tin về tình trạng làm cha cũng không có sẵn. Đánh giá sức khỏe dựa trên chẩn đoán đăng ký, có thể bỏ sót chẩn đoán khác. Dữ liệu di truyền và hormone cũng thiếu.
 
KẾT LUẬN
Chất lượng tinh dịch là dấu hiệu mạnh của tuổi thọ. Nam giới có chất lượng tinh dịch tốt sống lâu hơn 2 năm so với người có chất lượng tinh dịch kém. Mối liên hệ này không bị ảnh hưởng bởi bệnh lý hay trình độ học vấn.
 
Cần nghiên cứu thêm để xác định các bệnh lý liên quan đến chất lượng tinh dịch. Các nghiên cứu tương lai nên tập trung vào quỹ đạo bệnh và dấu hiệu sinh học sớm ở nam giới vô sinh.
 
Tài liệu tham khảo: L Priskorn et al (2025), Semen quality and lifespan: a study of 78 284 men followed for up to 50 years, Human Reproduction.

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025

Năm 2020

Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...

Năm 2020

Caravelle Hotel Saigon, thứ bảy 19 . 7 . 2025

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK
Loading...