Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Sunday 12-01-2025 1:41am
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
CN. Trương Trần Minh Anh – IVF Tâm Anh
 
Tổng quan
Chuyển phôi đông lạnh (frozen embryo transfer - FET) đang ngày càng phổ biến do những cải tiến về kỹ thuật bảo quản và rã đông, cho tỷ lệ phôi sống và mang thai lâm sàng cao hơn. FET có thể mang lại kết quả sinh sản tốt hơn và ngăn ngừa hội chứng quá kích buồng trứng, nhưng tác động của nó đối với các kết quả nghiêm trọng ở mẹ như băng huyết sau sinh (postpartum haemorrhage - PPH) vẫn chưa được nghiên cứu nhiều. Băng huyết sau sinh vẫn là một trong những nguyên nhân chính trực tiếp gây tử vong và là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất gây bệnh nặng ở người mẹ. Nghiên cứu này nhằm đánh giá mối liên hệ giữa phương thức thụ thai (tự nhiên, thụ tinh trong ống nghiệm chuyển phôi tươi (ET) và FET) và PPH nghiêm trọng, nhấn mạnh vào sự khác biệt giữa các phương thức thụ thai và các yếu tố nhiễu tiềm tàng.
 
Vật liệu và phương pháp
Nghiên cứu hồi cứu thu thập từ cơ sở dữ liệu Mạng lưới chu sinh Burgundy của Pháp, bao gồm tất cả các ca sinh từ năm 2006 đến năm 2020, được liên kết với cơ sở dữ liệu trung tâm máu của khu vực. Các phân tích chính được tiến hành ở thai kỳ đơn thai, bao gồm 237.608 thai kỳ thụ thai tự nhiên, 1.773 thai kỳ ET và 878 thai kỳ FET. Kết quả được xác định là PPH nghiêm trọng, được định nghĩa là PPH yêu cầu truyền máu (nhận ít nhất một đơn vị máu) và/ hoặc phẫu thuật khẩn cấp và/hoặc can thiệp bằng xạ trị ở tất cả phụ nữ bị PHH từ khi sinh cho đến 42 ngày sau sinh.
 
Kết quả
Tỷ lệ PPH nghiêm trọng là 0,74% trong các thai kỳ thụ thai tự nhiên, 1,92% trong các thai kỳ ET và 3,30% trong các thai kỳ FET. Nguy cơ PPH nghiêm trọng cao hơn trong các thai kỳ ET so với các thai kỳ thụ thai tự nhiên trong cả phân tích đơn biến (OR thô 2,64, 95% KTC 1,87 đến 3,71) và đa biến (OR đã điều chỉnh (aOR) 1,66, 95% KTC 1,07 đến 2,57). Tương tự, nguy cơ PPH nghiêm trọng cao hơn trong các thai kỳ FET so với thụ thai tự nhiên trong cả phân tích đơn biến (OR thô 4,61, 95% KTC 3,17 đến 6,69) và đa biến (aOR 2,63, 95% KTC 1,68 đến 4,10). Nguy cơ PPH nghiêm trọng tương đương ở bất kể phương pháp đông lạnh nào. Nguy cơ PPH nghiêm trọng cao hơn trong các thai kỳ FET so với ET (aOR 2,78, 95% KTC 1,44 đến 5,35).
 
Bàn luận
Kết quả nghiên cứu cho thấy nguy cơ PPH nghiêm trọng cao hơn ở chu kỳ FET so với ET. Quy trình đông lạnh - rã đông có thể góp phần vào sự gia tăng đáng kể PPH nghiêm trọng, đặc biệt là qua tác động lên quá trình xâm nhập của nguyên bào lá nuôi và phát triển mạch máu của nhau thai. Trong nghiên cứu, nguy cơ PPH nghiêm trọng không khác biệt giữa các phương pháp đông lạnh, nhưng kết quả này có hạn chế do cỡ mẫu nhỏ. Chuẩn bị nội mạc tử cung cũng có thể góp phần làm tăng nguy cơ PPH. Các chu kỳ FET trong bài nghiên cứu đều thực hiện chuẩn bị nội mạc tử cung theo phác đồ bổ sung hormone nhân tạo. Một phân tích tổng hợp gần đây cho thấy so với các chu kỳ FET chuẩn bị nội mạc tử cung theo phác đồ tự nhiên và kích thích buồng trứng nhẹ, các chu kỳ thực hiện phác đồ bổ sung hormone nhân tạo có liên quan đến nguy cơ PPH cao hơn dù kết quả này còn hạn chế bởi chất lượng của các nghiên cứu. Để làm cho chu kỳ FET an toàn hơn, cần có thêm các nghiên cứu về vai trò tương đối của các phương pháp đông lạnh, chuẩn bị nội mạc tử cung và các yếu tố môi trường khác liên quan đến hỗ trợ sinh sản. Ở các thai kỳ đơn thai, nguy cơ PPH nghiêm trọng đối với FET thấp dù tỷ lệ phần trăm cao hơn so với các thai kỳ thụ thai tự nhiên và ET. Tuy nhiên, số lượng phụ nữ thực hiện FET đang ngày càng tăng trên toàn thế giới, vì vậy kết quả này có thể ảnh hưởng đến nhiều phụ nữ hơn mỗi năm. Do đó, việc xác định các yếu tố nguy cơ, đưa ra những khuyến nghị đối với PPH nghiêm trọng cho các thai kỳ có nguy cơ cao là cần thiết và nên được cập nhật.
 
Nguồn: Al‐Khatib, A., Sagot, P., Cottenet, J., Aroun, M., Quantin, C., & Desplanches, T. (2024). Major postpartum haemorrhage after frozen embryo transfer: a population‐based study. BJOG: An International Journal of Obstetrics & Gynaecology, 131(3), 300-308.

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025

Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK