Tin tức
on Wednesday 08-01-2025 3:16am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Khổng Tiết Mây Như – IVFMD
Đáp ứng buồng trứng kém (poor ovarian response – POR) được định nghĩa theo tiêu chuẩn ESHRE là khi một chu kỳ kích thích buồng trứng sử dụng phác đồ cổ điển nhưng chọc hút chỉ thu được 3 hoặc ít hơn cụm noãn. Các yếu tố khác được đánh giá cùng là tuổi mẹ cao ≥40, AFC <7 hoặc AMH <0,5-1,1ng/ml. Dự trữ buồng trứng bất thường và tuổi mẹ cao là nguyên nhân chủ yếu làm giảm đáp ứng buồng trứng. Trong IVF thì có khoảng 15% trường hợp là POR với tỉ lệ điều trị thành công rất thấp. Báo cáo về tỉ lệ trẻ sinh sống (live birth rate – LBR) ở những phụ nữ POR là <10% ở mỗi chu kỳ, dao động từ 2-8%. Tuy nhiên, rất ít bằng chứng về các yếu tố ảnh hưởng như tuổi mẹ, phác đồ kích thích buồng trứng, loại GnRH sử dụng, số noãn chọc hút được. Vì vậy, mục đích của nghiên cứu này là đánh giá tác động của tuổi mẹ và số noãn chọc hút được lên tỉ lệ trẻ sinh sống cộng dồn (cLBR) sau mỗi chu kỳ IVF trên nhóm POR.
Dữ liệu được thu thập vào T7/2004 đến T6/2019 trên 2.516 chu kỳ IVF hoặc ICSI tươi. Phác đồ kích thích là GnRH 150-450IU trong 1 hoặc 2 chu kỳ IVF. Số noãn chọc hút được là 1-3 noãn. Nhóm đối chứng là nhóm thu được 4 noãn. Khi xét về tuổi tác thì mỗi nhóm được chia thành 4 nhóm nhỏ (<35 tuổi; 35-39 tuổi; 40-42 tuổi; 43-45 tuổi). Sau chọc hút có 398 chu kỳ 1 noãn, 591 chu kỳ 2 noãn, 670 chu kỳ 3 noãn và 857 chu kỳ 4 noãn. Kết quả cho thấy:
-Tỉ lệ thai lâm sàng (clinical pregnancy rate – CPR) và LBR trung bình trong nghiên cứu lần lượt là 16,4% và 12,6%; cLBR là 13,1%.
-LBR không có sự khác biệt đáng kể giữa chu kỳ thứ nhất và thứ hai ở mỗi bệnh nhân (OR:0,6; P=0,076).
-Dựa trên số noãn:
Một số ý kiến có thể cho rằng kích thích tối thiểu hoặc nhẹ và ngân hàng phôi hoặc trứng sẽ làm tăng LBR chung cho mỗi chu kỳ ở những phụ nữ POR. Việc bổ sung dehydroepiandrosterone (DHEA), Estradiol trong chu kỳ trước khi kích thích, loại phác đồ kích thích buồng trứng và ngân hàng noãn hoặc kích thích kép (DuaStim) đã được đề xuất như một biện pháp để tăng cơ hội mang thai ở phụ nữ POR. Tuy nhiên, những giải pháp can thiệp trên chưa có bằng chứng đủ mạnh nên các tác giả chỉ sử dụng liều GnRH hàng ngày không vượt quá ngưỡng 450 IU. Mỗi noãn được lấy ở mỗi chu kỳ đều liên quan đến sự tăng cLBR, kết quả này không thể đạt được khi sử dụng chu kỳ tự nhiên hoặc kích thích nhẹ. Do đó, lâm sàng nên cân nhắc tư vấn để hướng dẫn bệnh nhân một cách phù hợp về cơ hội thành công tốt nhất của họ dựa trên đánh giá các dấu hiệu dự trữ buồng trứng đã có từ trước.
Tóm lại, ở những bệnh nhân POR, cả tuổi và số lượng noãn được lấy ra đều là những yếu tố độc lập ảnh hưởng đến cLBR sau điều trị IVF. Bất kể tuổi tác, việc lấy thêm một noãn đều liên quan đến sự gia tăng cLBR cho mỗi lần lấy noãn.
Nguồn: Polanski L, Beebeejaun Y. Toukhy SE and Toukhy TE. The impact of age and number of oocytes retrieved on the cumulative live birth rate in women with poor ovarian response: a 15-year study. European Journal of Obstetrics and Gynecology 2024 Nov.
Đáp ứng buồng trứng kém (poor ovarian response – POR) được định nghĩa theo tiêu chuẩn ESHRE là khi một chu kỳ kích thích buồng trứng sử dụng phác đồ cổ điển nhưng chọc hút chỉ thu được 3 hoặc ít hơn cụm noãn. Các yếu tố khác được đánh giá cùng là tuổi mẹ cao ≥40, AFC <7 hoặc AMH <0,5-1,1ng/ml. Dự trữ buồng trứng bất thường và tuổi mẹ cao là nguyên nhân chủ yếu làm giảm đáp ứng buồng trứng. Trong IVF thì có khoảng 15% trường hợp là POR với tỉ lệ điều trị thành công rất thấp. Báo cáo về tỉ lệ trẻ sinh sống (live birth rate – LBR) ở những phụ nữ POR là <10% ở mỗi chu kỳ, dao động từ 2-8%. Tuy nhiên, rất ít bằng chứng về các yếu tố ảnh hưởng như tuổi mẹ, phác đồ kích thích buồng trứng, loại GnRH sử dụng, số noãn chọc hút được. Vì vậy, mục đích của nghiên cứu này là đánh giá tác động của tuổi mẹ và số noãn chọc hút được lên tỉ lệ trẻ sinh sống cộng dồn (cLBR) sau mỗi chu kỳ IVF trên nhóm POR.
Dữ liệu được thu thập vào T7/2004 đến T6/2019 trên 2.516 chu kỳ IVF hoặc ICSI tươi. Phác đồ kích thích là GnRH 150-450IU trong 1 hoặc 2 chu kỳ IVF. Số noãn chọc hút được là 1-3 noãn. Nhóm đối chứng là nhóm thu được 4 noãn. Khi xét về tuổi tác thì mỗi nhóm được chia thành 4 nhóm nhỏ (<35 tuổi; 35-39 tuổi; 40-42 tuổi; 43-45 tuổi). Sau chọc hút có 398 chu kỳ 1 noãn, 591 chu kỳ 2 noãn, 670 chu kỳ 3 noãn và 857 chu kỳ 4 noãn. Kết quả cho thấy:
-Tỉ lệ thai lâm sàng (clinical pregnancy rate – CPR) và LBR trung bình trong nghiên cứu lần lượt là 16,4% và 12,6%; cLBR là 13,1%.
-LBR không có sự khác biệt đáng kể giữa chu kỳ thứ nhất và thứ hai ở mỗi bệnh nhân (OR:0,6; P=0,076).
-Dựa trên số noãn:
- CPR từ 1; 2; 3 và 4 noãn lần lượt là 5,5%; 12,3%; 17,7% và 23,3%. LBR lần lượt là 3,2%; 9,8%; 14,3% và 17,5% (P<0,001).
- Bệnh nhân có 2; 3 hoặc 4 noãn thì sẽ đạt được gần như gấp 3;4; hoặc 6 lần cơ hội có 1 trẻ sinh sống so với bệnh nhân chỉ có 1 noãn.
- cLBR lần lượt là 3,2%; 9,8%; 14,5% và 18,8%.
- CPR ở 4 nhóm theo độ tuổi tăng dần lần lượt là 30,8%; 20,7%; 15,9% và 10,3%. LBR lần lượt là 22,1%; 12,9%; 7,5% và 3,4% (P<0,001).
- cLBR giảm theo độ tuổi tăng.
Một số ý kiến có thể cho rằng kích thích tối thiểu hoặc nhẹ và ngân hàng phôi hoặc trứng sẽ làm tăng LBR chung cho mỗi chu kỳ ở những phụ nữ POR. Việc bổ sung dehydroepiandrosterone (DHEA), Estradiol trong chu kỳ trước khi kích thích, loại phác đồ kích thích buồng trứng và ngân hàng noãn hoặc kích thích kép (DuaStim) đã được đề xuất như một biện pháp để tăng cơ hội mang thai ở phụ nữ POR. Tuy nhiên, những giải pháp can thiệp trên chưa có bằng chứng đủ mạnh nên các tác giả chỉ sử dụng liều GnRH hàng ngày không vượt quá ngưỡng 450 IU. Mỗi noãn được lấy ở mỗi chu kỳ đều liên quan đến sự tăng cLBR, kết quả này không thể đạt được khi sử dụng chu kỳ tự nhiên hoặc kích thích nhẹ. Do đó, lâm sàng nên cân nhắc tư vấn để hướng dẫn bệnh nhân một cách phù hợp về cơ hội thành công tốt nhất của họ dựa trên đánh giá các dấu hiệu dự trữ buồng trứng đã có từ trước.
Tóm lại, ở những bệnh nhân POR, cả tuổi và số lượng noãn được lấy ra đều là những yếu tố độc lập ảnh hưởng đến cLBR sau điều trị IVF. Bất kể tuổi tác, việc lấy thêm một noãn đều liên quan đến sự gia tăng cLBR cho mỗi lần lấy noãn.
Nguồn: Polanski L, Beebeejaun Y. Toukhy SE and Toukhy TE. The impact of age and number of oocytes retrieved on the cumulative live birth rate in women with poor ovarian response: a 15-year study. European Journal of Obstetrics and Gynecology 2024 Nov.
Các tin khác cùng chuyên mục:










TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Cập nhật lịch tổ chức sự kiện và xuất bản ấn phẩm của ...
Năm 2020
Wyndham Legend Halong, Sáng thứ Bảy 22 . 3 . 2025 (8:30 - 11:45)
Năm 2020
Quinter Central Nha Trang, chiều thứ bảy 11.1.2025 (13:00 - 17:00)
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
FACEBOOK