Tin tức
on Monday 06-01-2025 6:03am
Danh mục: Tin quốc tế
CN. Ngô Thị Lan Phương
Đơn vị HTSS IVFMD FAMILY, BVĐK Gia Đình, Đà Nẵng
Khả năng sinh sản của phụ nữ phụ thuộc vào nhiều cơ quan và hệ thống nội tiết phức tạp, tất cả đều được điều chỉnh bởi bộ máy di truyền. Tuổi sinh sản của phụ nữ phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng noãn. Những sai sót trong quá trình giảm phân có thể dẫn đến lệch bội ở noãn, tuy nhiên cơ chế chưa được biết chính xác. Để duy trì khả năng sinh sản, người phụ nữ phải cần có đủ hai yếu tố số lượng noãn và chất lượng noãn, trong đó, tình trạng nguyên bội của noãn là điều kiện tiên quyết cho khả năng đậu thai. Noãn nguyên bội sau khi được thụ tinh có thể tạo phôi có tiềm năng phát triển, trong khi noãn lệch bội có thể gây ra tình trạng không làm tổ hoặc sẩy thai sớm.
Tuổi người mẹ là dấu ấn sinh học lâm sàng duy nhất có khả năng dự đoán cho tình trạng lệch bội của noãn. Noãn ở mẹ lớn tuổi mất đi các protein gắn kết nhiễm sắc thể (NST) có tác dụng bảo vệ tình trạng nguyên bội của noãn. Do đó, sự gia tăng tình trạng lệch bội ở noãn tăng theo độ tuổi của mẹ bắt đầu từ 30 tuổi. Tuy nhiên, vẫn chưa có sự đồng nhất về khả năng sinh sản và tuổi sinh sản của phụ nữ.
Tăng lệch bội noãn (Elevated egg aneuploidy - EEA) là một dạng lão hóa nhanh về sinh sản. Cơ sở di truyền của hiện tượng này vẫn chưa được hiểu rõ và việc xác định các biến thể di truyền là nguyên nhân cho EEA vẫn còn nhiều thách thức. Các kiểu hình di truyền có thể giải thích một số tính không đồng nhất trong mối quan hệ giữa lệch bội noãn và tuổi của mẹ. Các biến thể di truyền đã được xác định trong nhiều gen có thể ảnh hưởng đến lệch bội noãn và phôi ở độ tuổi trẻ hơn mức trung bình. Một trở ngại lớn đối với việc xác định các biến thể EEA là sự khan hiếm dữ liệu kiểu gen-kiểu hình có sẵn, dẫn đến số lượng bệnh nhân tương đối ít. Do đó, xác nhận chức năng sinh học của gen liên quan là "tiêu chuẩn vàng" để xác định nguyên nhân di truyền thực sự gây EEA.
Nghiên cứu này sử dụng phương pháp tin sinh học để xác định gen có liên quan đến EEA từ đó làm sáng tỏ vai trò kinesin trong việc duy trì tính nguyên bội của noãn. Kinesin là một nhóm lớn gồm 14 lớp protein vận động oligomeric liên kết với các vi ống, trong đó các gen kinesin KIF20A và KIF18A liên quan đến EEA. KIF18A và KIF20A là thành viên của nhóm lớn protein kinesin (KIF). Cả hai gen KIF này đều có miền vận động, vùng enzym có ái lực liên kết vi ống động và hoạt động thủy phân ATP mang lại khả năng vận động cho protein. Khi miền vận động của các kinesin bị ức chế sẽ làm tăng nguy cơ lệch bội ở noãn. Cụ thể, KIF20A là một kinesin dạng dimer vận chuyển phức hợp đồng hành NST (Chromosomal passenger complex - CPC) trong nguyên phân và giảm phân, đóng vai trò quan trọng đối với sự phân chia NST. KIF18A tham gia điều chỉnh động học của vi ống. Các biến thể kinesin trong KIF20A và KIF18A được xác định ở bệnh nhân EEA gây ra hiện tượng lệch bội và phá hủy các chức năng đặc hiệu của gen cần thiết cho sự phân li NST chính xác.
Nhóm tác giả đưa ra một số kết luận:
● Sự ức chế miền vận động ở các kinesin làm tăng tình trạng lệch bội của noãn
● Các biến thể kinesin biểu hiện ở mức cao làm tăng tình trạng lệch bội ở noãn
● KIF20A L191P và KIF18A T273A làm gián đoạn các quá trình quan trọng trong giảm phân I
● mKIF18A S273A đẩy nhanh quá trình lão hóa sinh sản ở nữ giới bằng cách làm tăng tình trạng noãn lệch bội sớm
Những kết quả này cho thấy một số noãn biểu hiện các biến thể kinesin ở bệnh nhân EEA tạo ra noãn lệch bội tăng qua giảm phân I, hoặc không tiến hành phân chia tế bào chất kịp thời do lỗi trong giảm phân I.
Nghiên cứu của này vẫn còn một số hạn chế: quy mô mẫu của nhóm bệnh nhân tương đối nhỏ, các phân tích chỉ xác định hạn chế các biến thể và gen góp phần vào nguy cơ lệch bội. Tuy nhiên, đây là nghiên cứu đặt nền tảng cho việc xác định các biến thể di truyền EEA trong tương lai.
Tài liệu tham khảo
Biswas L, Tyc KM, Aboelenain M, Sun S, Dundović I, Vukušić K, Liu J, Guo V, Xu M, Scott RT Jr, Tao X, Tolić IM, Xing J, Schindler K. Maternal genetic variants in kinesin motor domains prematurely increase egg aneuploidy. Proc Natl Acad Sci U S A. 2024 Nov 5;121(45):e2414963121. doi: 10.1073/pnas.2414963121.
Đơn vị HTSS IVFMD FAMILY, BVĐK Gia Đình, Đà Nẵng
Khả năng sinh sản của phụ nữ phụ thuộc vào nhiều cơ quan và hệ thống nội tiết phức tạp, tất cả đều được điều chỉnh bởi bộ máy di truyền. Tuổi sinh sản của phụ nữ phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng noãn. Những sai sót trong quá trình giảm phân có thể dẫn đến lệch bội ở noãn, tuy nhiên cơ chế chưa được biết chính xác. Để duy trì khả năng sinh sản, người phụ nữ phải cần có đủ hai yếu tố số lượng noãn và chất lượng noãn, trong đó, tình trạng nguyên bội của noãn là điều kiện tiên quyết cho khả năng đậu thai. Noãn nguyên bội sau khi được thụ tinh có thể tạo phôi có tiềm năng phát triển, trong khi noãn lệch bội có thể gây ra tình trạng không làm tổ hoặc sẩy thai sớm.
Tuổi người mẹ là dấu ấn sinh học lâm sàng duy nhất có khả năng dự đoán cho tình trạng lệch bội của noãn. Noãn ở mẹ lớn tuổi mất đi các protein gắn kết nhiễm sắc thể (NST) có tác dụng bảo vệ tình trạng nguyên bội của noãn. Do đó, sự gia tăng tình trạng lệch bội ở noãn tăng theo độ tuổi của mẹ bắt đầu từ 30 tuổi. Tuy nhiên, vẫn chưa có sự đồng nhất về khả năng sinh sản và tuổi sinh sản của phụ nữ.
Tăng lệch bội noãn (Elevated egg aneuploidy - EEA) là một dạng lão hóa nhanh về sinh sản. Cơ sở di truyền của hiện tượng này vẫn chưa được hiểu rõ và việc xác định các biến thể di truyền là nguyên nhân cho EEA vẫn còn nhiều thách thức. Các kiểu hình di truyền có thể giải thích một số tính không đồng nhất trong mối quan hệ giữa lệch bội noãn và tuổi của mẹ. Các biến thể di truyền đã được xác định trong nhiều gen có thể ảnh hưởng đến lệch bội noãn và phôi ở độ tuổi trẻ hơn mức trung bình. Một trở ngại lớn đối với việc xác định các biến thể EEA là sự khan hiếm dữ liệu kiểu gen-kiểu hình có sẵn, dẫn đến số lượng bệnh nhân tương đối ít. Do đó, xác nhận chức năng sinh học của gen liên quan là "tiêu chuẩn vàng" để xác định nguyên nhân di truyền thực sự gây EEA.
Nghiên cứu này sử dụng phương pháp tin sinh học để xác định gen có liên quan đến EEA từ đó làm sáng tỏ vai trò kinesin trong việc duy trì tính nguyên bội của noãn. Kinesin là một nhóm lớn gồm 14 lớp protein vận động oligomeric liên kết với các vi ống, trong đó các gen kinesin KIF20A và KIF18A liên quan đến EEA. KIF18A và KIF20A là thành viên của nhóm lớn protein kinesin (KIF). Cả hai gen KIF này đều có miền vận động, vùng enzym có ái lực liên kết vi ống động và hoạt động thủy phân ATP mang lại khả năng vận động cho protein. Khi miền vận động của các kinesin bị ức chế sẽ làm tăng nguy cơ lệch bội ở noãn. Cụ thể, KIF20A là một kinesin dạng dimer vận chuyển phức hợp đồng hành NST (Chromosomal passenger complex - CPC) trong nguyên phân và giảm phân, đóng vai trò quan trọng đối với sự phân chia NST. KIF18A tham gia điều chỉnh động học của vi ống. Các biến thể kinesin trong KIF20A và KIF18A được xác định ở bệnh nhân EEA gây ra hiện tượng lệch bội và phá hủy các chức năng đặc hiệu của gen cần thiết cho sự phân li NST chính xác.
Nhóm tác giả đưa ra một số kết luận:
● Sự ức chế miền vận động ở các kinesin làm tăng tình trạng lệch bội của noãn
● Các biến thể kinesin biểu hiện ở mức cao làm tăng tình trạng lệch bội ở noãn
● KIF20A L191P và KIF18A T273A làm gián đoạn các quá trình quan trọng trong giảm phân I
● mKIF18A S273A đẩy nhanh quá trình lão hóa sinh sản ở nữ giới bằng cách làm tăng tình trạng noãn lệch bội sớm
Những kết quả này cho thấy một số noãn biểu hiện các biến thể kinesin ở bệnh nhân EEA tạo ra noãn lệch bội tăng qua giảm phân I, hoặc không tiến hành phân chia tế bào chất kịp thời do lỗi trong giảm phân I.
Nghiên cứu của này vẫn còn một số hạn chế: quy mô mẫu của nhóm bệnh nhân tương đối nhỏ, các phân tích chỉ xác định hạn chế các biến thể và gen góp phần vào nguy cơ lệch bội. Tuy nhiên, đây là nghiên cứu đặt nền tảng cho việc xác định các biến thể di truyền EEA trong tương lai.
Tài liệu tham khảo
Biswas L, Tyc KM, Aboelenain M, Sun S, Dundović I, Vukušić K, Liu J, Guo V, Xu M, Scott RT Jr, Tao X, Tolić IM, Xing J, Schindler K. Maternal genetic variants in kinesin motor domains prematurely increase egg aneuploidy. Proc Natl Acad Sci U S A. 2024 Nov 5;121(45):e2414963121. doi: 10.1073/pnas.2414963121.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Nồng độ GDF9 trong môi trường nuôi cấy liên quan đến chất lượng và sức sống của phôi - Ngày đăng: 06-01-2025
Mối liên quan giữa hình thái phôi và sự thay đổi giá trị nồng độ βhCG vào ngày 14 và ngày 18 sau chuyển phôi - Ngày đăng: 06-01-2025
Bất thường màng trong suốt của noãn: đánh giá tác động lâm sàng đối với các bất thường khác nhau về màng trong suốt và vai trò của hỗ trợ thoát màng - Ngày đăng: 06-01-2025
Tỷ lệ cao của các hợp tử có nhiều tiền nhân làm tăng tỷ lệ đa nhân của phôi trong quá trình thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) cổ điển - Ngày đăng: 03-01-2025
Thực hiện xét nghiệm phân mảnh DNA tinh trùng thêm vào tinh dịch đồ theo tiêu chuẩn của WHO có thể là một chẩn đoán chính xác hơn về kết quả IVF - Ngày đăng: 03-01-2025
Yếu tố tiên lượng kết quả IVF/ICSI: ảnh hưởng của tuổi vợ, dự trữ buồng trứng, tuổi chồng và yếu tố nam giới lên kết quả điều trị - Ngày đăng: 03-01-2025
Lựa chọn phôi dựa trên học sâu so với hình thái thủ công trong IVF: một thử nghiệm không thua kém, mù đôi, ngẫu nhiên - Ngày đăng: 03-01-2025
Chuyển phôi với bộ nhiễm sắc thể (NST) ban đầu 46,XY cho kết quả sảy thai 45,X – một báo cáo trường hợp và xem xét quản lý kết quả không đồng thuận - Ngày đăng: 03-01-2025
Tỉ lệ trưởng thành của noãn là một yếu tố dự đoán sự phát triển phôi nang và tỉ lệ nguyên bội: một nghiên cứu hồi cứu đa trung tâm - Ngày đăng: 03-01-2025
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Quinter Central Nha Trang, chiều thứ bảy 11.1.2025 (13:00 - 17:00)
Năm 2020
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
FACEBOOK