Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Tuesday 31-12-2024 6:51am
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
CN. Trần Thị Hoa Phượng – IVF Tâm Anh
 
Bối cảnh: Mặc dù thụ tinh trong ống nghiệm (IVF), đặc biệt là chuyển phôi đông lạnh-rã đông (FET), đã đạt được những tiến bộ đáng kể. Tuy nhiên, với thất bại được báo cáo lên đến 70%, tỷ lệ làm tổ thành công sau FET vẫn còn là một thách thức lớn. Quá trình làm tổ yêu cầu sự tương thích tối đa giữa phôi và nội mạc tử cung, chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, bao gồm tuổi mẹ, dự trữ buồng trứng, chất lượng phôi và đặc biệt là khả năng tiếp nhận của nội mạc tử cung. Trong các chu kỳ FET, một trong những phác đồ chuẩn bị nội mạc tử cung thường quy phổ biến là liệu pháp hormone thay thế (HRT – hormone replacement therapy), sử dụng phối hợp estradiol và progesterone ngoại sinh nhằm mục đích tạo ra một môi trường tương tự như pha hoàng thể của chu kỳ kinh nguyệt tự nhiên. Tuy nhiên, một hạn chế của HRT trong FET là việc bỏ qua sự gia tăng đột ngột của hormone hoàng thể hóa (LH) - một sự kiện sinh lý quan trọng diễn ra trước thời điểm rụng trứng và có vai trò then chốt trong việc tối ưu hóa khả năng tiếp nhận phôi của nội mạc tử cung. Sự thiếu hụt LH này có thể ảnh hưởng đến quá trình trưởng thành cuối cùng và khả năng đáp ứng của nội mạc tử cung với phôi. Để giải quyết vấn đề này, việc bổ sung hCG (human chorionic gonadotropin), một hormone glycoprotein có cấu trúc tương đồng với LH có khả năng gắn kết với thụ thể LH/hCG trên tế bào nội mạc tử cung và hoàng thể, đã được nghiên cứu như một chiến lược thay thế tiềm năng. hCG được cho là có khả năng kích thích các quá trình sinh học tương tự như LH, bao gồm kích thích sự biệt hóa của tế bào nội mạc tử cung, khởi động quá trình hình thành màng rụng, tăng cường tưới máu nội mạc tử cung thông qua quá trình tân tạo mạch, và điều hòa hệ thống miễn dịch tại chỗ, tạo điều kiện thuận lợi cho sự làm tổ của phôi.
 
Mặc dù một số nghiên cứu tiền lâm sàng và lâm sàng đã đánh giá tác động của hCG lên kết quả IVF, tuy nhiên các kết quả vẫn còn chưa thống nhất và chưa được áp dụng rộng rãi. Vì vậy, mục đích nghiên cứu của Asbagh và cộng sự (năm 2023) là so sánh tác động của tiêm bắp hCG trong quá trình chuẩn bị nội mạc tử cung và chuyển phôi ở nhóm FET so với nhóm đối chứng.
 
Phương pháp: Để xác định xem việc bổ sung hCG trước khi bắt đầu dùng progesterone có thể cải thiện kết quả FET hay không, một thử nghiệm lâm sàng đã được thực hiện trên 140 phụ nữ vô sinh đã thực hiện FET từ tháng 12 năm 2021 đến tháng 6 năm 2022. Nghiên cứu được phân bổ ngẫu nhiên vào nhóm thử nghiệm (tiêm bắp hai ống hCG 5000IU trước khi tiêm liều progesterone đầu tiên) và nhóm đối chứng (không tiêm hCG). Cụ thể, ở nhóm thử nghiệm, liều 4 mg estradiol valerate / ngày được bổ sung liên tục trong bốn ngày, sau đó là 6 mg estradiol / ngày trong bốn ngày tiếp theo. Sau đó, vào ngày thứ 8, siêu âm và theo dõi liên tục, khi ET đạt ≥ 7,5 mm, thực hiện tiêm bắp hai ống hCG 5000IU. Nhóm đối chứng không được tiêm bất kỳ mũi hCG nào, tuy nhiên vẫn tiêm bắp 100 mg progesterone mỗi ngày tương tự nhóm thử nghiệm. Tiến hành chuyển phôi ngày 3 ở cả hai nhóm 4 ngày sau khi tiêm progesterone. Kết quả được thống kê trong nghiên cứu bao gồm thai sinh hóa, thai lâm sàng và tỷ lệ sẩy thai.
 
Tất cả các phân tích thống kê được thực hiện bằng SPSS với (P < 0,05). T- test độc lập và kiểm định Mann-Whitney U phi tham số được sử dụng để đánh giá sự khác biệt về giá trị trung bình. Kiểm định χ 2 và kiểm định Fisher được áp dụng để đánh giá sự khác biệt về tỷ lệ phần trăm.
 
Kết quả: Độ tuổi trung bình của nhóm thử nghiệm và nhóm chứng lần lượt là 32,65 ± 6,05 và 33,11 ± 5,36 tuổi. Trong cả hai nhóm nghiên cứu, ß-hCG dương tính có ở 33 phụ nữ (47,1%) và thai lâm sàng có ở 30 phụ nữ (42,9%). Trong đó, chỉ có tỷ lệ thai lâm sàng (28,6% so với 14,3%, P = 0,039, RR = 0,50) ở nhóm thử nghiệm cao hơn đáng kể so với nhóm đối chứng, khác biệt có ý nghĩa thống kê. Tỷ lệ thai sinh hoá (30% so với 17,1%, P = 0,073, RR = 0,57) và tỷ lệ sẩy thai (4,3% so với 1,4%, P = 0,620, RR = 0,33) không khác biệt giữa nhóm thử nghiệm và nhóm đối chứng.
 
Kết luận: Nghiên cứu của Asbagh và cộng sự cho thấy việc tiêm thấy tiêm bắp hCG IM với liều 10.000 IU trước giai đoạn hoàng thể của nội mạc tử cung trong chu kỳ HRT - FET đã cải thiện đáng kể tỷ lệ mang thai so với nhóm đối chứng, kết quả này cũng tương tự kết quả của Ling Deng và cộng sự (năm 2020) và Jan Tesarik và cộng sự (năm 2003), các nghiên cứu đều cho thấy tiêm hCG IM cải thiện kết quả IVF ngay cả ở liều thấp. Một số nghiên cứu khác cũng cùng kết quả, tuy nhiên số ít nghiên cứu còn lại không tìm thấy mối liên hệ của việc bổ sung hCG, có thể do các tác dụng phụ như co bóp tử cung hoặc dịch tử cung đẩy phôi ra ngoài. Ngược lại với kết quả trên, nghiên cứu của Eftekhar và cộng sự (năm 2021) không tìm thấy sự khác biệt đáng kể về kết quả IVF giữa nhóm hCG và nhóm đối chứng. Điểm mạnh của nghiên cứu là hướng nghiên cứu và thiết kế thử nghiệm triển vọng, tuy nhiên nghiên cứu còn tồn tại nhiều hạn chế như không sử dụng giả dược, cỡ mẫu nhỏ và được thực hiện chỉ tại một trung tâm. Do đó, cần có thêm các nghiên cứu đối chứng ngẫu nhiên (RCT) với cỡ mẫu lớn và thiết kế chặt chẽ để đánh giá một cách toàn diện hiệu quả lâm sàng của việc bổ sung hCG trong các chu kỳ FET, từ đó tối ưu hóa quy trình chuẩn bị nội mạc tử cung và cải thiện tỷ lệ cấy phôi thành công, hướng tới mục tiêu cuối cùng là tăng tỷ lệ mang thai lâm sàng và tỷ lệ sinh sống.
 
Nguồn: Asbagh, F. A., Ghasemzadeh, F., Ebrahimi, M., Davari-Tanha, F., Feizabad, E., Asbagh, P. A., & Quchani, S. H. (2023). Effect of intramuscular injection of human chorionic gonadotropin on endometrium preparation in frozen-thawed embryo transfer cycle: A randomized clinical trial. Caspian Journal of Internal Medicine, 14(2), 185.

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Cập nhật lịch tổ chức sự kiện và xuất bản ấn phẩm của ...

Năm 2020

Wyndham Legend Halong, Sáng thứ Bảy 22 . 3 . 2025 (8:30 - 11:45)

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK