Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Monday 30-12-2024 10:03am
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Phan Thị Thanh Loan – IVFMD Tân Bình
 
Giới thiệu
Bơm tinh trùng vào buồng tử cung (IUI) là một kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (ART) phổ biến được chỉ định trong các trường hợp vô sinh nhẹ do yếu tố nam giới, vô kinh, lạc nội mạc tử cung hoặc vô sinh không rõ nguyên nhân. Tuy nhiên, tỷ lệ mang thai sau IUI vẫn thấp hơn so với thụ tinh trong ống nghiệm (IVF). Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra một số yếu tố có thể ảnh hưởng đến kết quả IUI, bao gồm tuổi tác, chỉ số khối cơ thể (BMI), thời gian vô sinh và chất lượng noãn. Dựa theo thực hành lâm sàng hiện nay, nên cân nhắc chuyển sang IVF sau ba đến bốn chu kỳ IUI không thành công. Đặc biệt, cần lưu ý rằng số chu kỳ IUI tối ưu có thể khác nhau tùy thuộc vào từng bệnh nhân. Do đặc điểm riêng biệt và các vấn đề vô sinh tiềm ẩn khác nhau, việc áp dụng một khuyến cáo chung cho tất cả bệnh nhân có thể không hiệu quả. Nghiên cứu lâm sàng hiện tại chưa có hướng dẫn cụ thể để điều chỉnh linh hoạt cho từng trường hợp. Do đó, cần đánh giá cẩn thận từng bệnh nhân và xây dựng kế hoạch điều trị cá nhân hóa dựa trên các yếu tố như tuổi tác, tiền sử sản – phụ khoa và đáp ứng với các chu kỳ IUI trước đó.
 
Tuổi tác là một đặc điểm quan trọng phản ánh khả năng sinh sản của phụ nữ và ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả điều trị của IUI. Khi phụ nữ lớn tuổi, dự trữ buồng trứng suy giảm, chất lượng noãn kém, nguy cơ bất thường nhiễm sắc thể ở noãn tăng, từ đó làm giảm khả năng mang thai và tăng nguy cơ sẩy thai. Hiện tại, vẫn chưa có nghiên cứu nào so sánh chi tiết các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả IUI ở bệnh nhân trẻ tuổi và lớn tuổi. Vì vậy, mục tiêu nghiên cứu là xác định những yếu tố có thể ảnh hưởng đến hiệu quả IUI ở hai nhóm bệnh nhân trên, từ đó cung cấp cơ sở khoa học cho việc tư vấn và lựa chọn phương pháp điều trị phù hợp cho từng bệnh nhân.
 
Đối tượng và phương pháp
Nghiên cứu hồi cứu được thực hiện tại Bệnh viện Phụ sản Nhi Thường Châu từ 01/2016 – 12/2020. Bệnh nhân thực hiện IUI từ 1 đến 3 chu kỳ được chia thành hai nhóm dựa trên độ tuổi: nhóm lớn tuổi (≥ 35 tuổi) và nhóm trẻ tuổi (< 35 tuổi). Với các tiêu chí loại trừ:
(1) Bất thường về nhiễm sắc thể ở vợ hoặc chồng
(2) Có u nang buồng trứng
(3) Bất thường tử cung, suy buồng trứng hoặc các bệnh lý liên quan khác ảnh hưởng đến chức năng sinh sản
(4) Mắc hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS), BMI ≥ 30 kg/m2
Bên cạnh tuổi tác, một số yếu tố bao gồm: BMI, nồng độ AMH, số chu kỳ IUI, thời gian vô sinh, chẩn đoán vô sinh, phân loại vô sinh, độ dày nội mạc tử cung, phương pháp điều trị, thông số tinh dịch đồ sẽ được xem xét và đánh giá mức độ ảnh hưởng đến khả năng mang thai ở bệnh nhân điều trị IUI.
 
Kết quả
Tổng cộng có 2.110 cặp vợ chồng với 4.221 chu kỳ IUI được đưa vào nghiên cứu. Độ tuổi trung bình là 30 tuổi và thời gian vô sinh trung bình khoảng 3 năm. Nhìn chung, tỷ lệ mang thai lâm sàng là 13,6% mỗi chu kỳ; tỷ lệ phá thai khoảng 10,3%; tỷ lệ thai ngoài tử cung khoảng 1,84%; 90,8% trẻ em là đơn thai và 4,52% trẻ em là song thai. Tỷ lệ chu kỳ IUI đầu tiên, thứ hai và thứ ba lần lượt là 49,6%; 33,4% và 13,0%.
Phân tích các yếu tố ảnh hưởng giữa nhóm mang thai và không mang thai cho thấy:
- Nhóm mang thai có độ tuổi trẻ hơn nhóm không mang thai (P < 0,001) và BMI cao hơn nhóm không mang thai (P = 0,003).
- Tỷ lệ tinh trùng có hình thái bình thường ở nhóm mang thai cao hơn nhóm không mang thai (P = 0,023).
- Không có sự khác biệt ở các yếu tố còn lại giữa hai nhóm bệnh nhân.
Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng mang thai ở từng nhóm tuổi cho thấy:
- Ở nhóm trẻ tuổi, tỷ lệ vô sinh thứ phát ở nhóm mang thai cao hơn nhóm không mang thai. 
- Ở nhóm lớn tuổi, có sự khác biệt đáng kể về số chu kỳ IUI giữa nhóm mang thai và không mang thai (P = 0,011). Cụ thể: tỷ lệ mang thai ở chu kỳ thứ hai cao hơn khoảng 1,9 lần so với chu kỳ thứ nhất (1,9, 95% CI: 0,97–3,77) và ở chu kỳ thứ ba cao hơn khoảng 3 lần so với chu kỳ thứ nhất (3,04, 95% CI: 1,43–6,42).
 
Bàn luận
Theo tiến trình lão hóa, sự ngắn lại vùng đầu mút nhiễm sắc thể và sự tích tụ các đột biến DNA ty thể (mtDNA) trong noãn, dẫn đến suy giảm chất lượng noãn và giảm tỷ lệ làm tổ. Khả năng mang thai bắt đầu giảm dần từ 30 tuổi và giảm đáng kể sau 40 tuổi. Do đó, một số hướng dẫn không nên thực hiện IUI sau 40 tuổi. Nghiên cứu này đã xác nhận lại mối tương quan nghịch giữa tuổi tác và khả năng mang thai sau IUI, với ảnh hưởng rõ rệt ở nhóm trẻ tuổi và ít rõ rệt hơn ở nhóm lớn tuổi. Nguyên nhân do nhóm bệnh nhân (> 35 tuổi) tham gia nghiên cứu đa số tập trung trong một vài độ tuổi và chức năng buồng trứng suy giảm mạnh. Vì vậy, sự khác biệt nhỏ ở một hoặc hai năm về tuổi tác có thể không có tác động đáng kể giữa các bệnh nhân trong nhóm tuổi này.
 
Cholesterol trong các tế bào mỡ đóng vai trò là nguyên liệu thô để tổng hợp hormone sinh dục. Ở phụ nữ có BMI thấp và dự trữ mỡ dưới da ít sẽ có hàm lượng cholesterol và nồng độ hormone sinh dục trong cơ thể thấp. Điều này tác động kép đến chức năng buồng trứng và sự phát triển của nội mạc tử cung, cuối cùng ảnh hưởng đến kết quả mang thai. Tuy nhiên, thừa cân/béo phì cũng tăng các nguy cơ tiềm ẩn khác như rối loạn kinh nguyệt, tăng nguy cơ sẩy thai, biến chứng thai kỳ và sinh non. Trong nghiên cứu này, BMI trung bình của bệnh nhân trong khoảng 23 kg/m2 (BMI bình thường) và chỉ có một tỷ lệ tương đối nhỏ bệnh nhân bị béo phì. Do đó, trong phạm vi BMI bình thường, các giá trị BMI cao hơn được phát hiện là có ảnh hưởng tích cực đến kết quả IUI.
 
Hầu hết các chuyên gia khuyến cáo nên cân nhắc chuyển sang thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) sau ba hoặc bốn chu kỳ IUI. Tuy nhiên, khuyến cáo này có thể không áp dụng được trên tất cả bệnh nhân khi xem xét thêm yếu tố tuổi tác. Mặc dù kết quả nghiên cứu cho thấy số chu kỳ IUI không liên quan đến khả năng mang thai ở nhóm trẻ tuổi, nhưng có mối quan hệ chặt chẽ ở nhóm lớn tuổi. Các nghiên cứu trước đây đã củng cố kết quả nghiên cứu này, ở phụ nữ dưới 30 tuổi cần trung bình 1,99 chu kỳ để thụ thai, trong khi phụ nữ trên 40 tuổi cần trung bình 2,24 chu kỳ. So sánh chu kỳ thứ hai với chu kỳ thứ nhất, tỷ lệ mang thai cao hơn 1,9 lần và chu kỳ thứ ba có tỷ lệ mang thai cao hơn 3 lần so với chu kỳ thứ nhất. Nói cách khác, đối với những bệnh nhân trẻ tuổi, việc tăng số chu kỳ IUI có thể không cải thiện đáng kể kết quả mang thai. Tuy nhiên, đối với nhóm bệnh nhân lớn tuổi, việc tăng số chu kỳ IUI có thể cải thiện tỷ lệ mang thai. Vì vậy, đối với những bệnh nhân trẻ tuổi nên chuyển sang IVF sau một hoặc hai lần IUI thất bại. Trong khi ở bệnh nhân lớn tuổi, việc tăng số chu kỳ IUI trước khi chuyển sang IVF có thể được cân nhắc. Tuy nhiên, bệnh nhân lớn tuổi phải đối mặt với nguy cơ suy buồng trứng sớm, vì vậy cần phải đánh giá toàn diện trước khi đưa ra quyết định. 
 
Nhìn chung, đây là một nghiên cứu có cỡ mẫu lớn và thời gian nghiên cứu dài (ba năm) đã phân tích được mối tương quan giữa số chu kỳ và kết quả IUI ở những bệnh nhân có độ tuổi khác nhau, điều này chưa được nghiên cứu rộng rãi trước đây. Tuy nhiên, nghiên cứu vẫn còn một số hạn chế như chỉ được tiến hành tại một trung tâm duy nhất, thiếu dữ liệu về chu kỳ IUI thứ tư và thứ năm. Mặc dù vậy, dữ liệu từ ba chu kỳ đầu tiên vẫn có thể cung cấp một cơ sở lý thuyết nhất định.
 
Kết luận
Tóm lại, nghiên cứu đã củng cố ảnh hưởng của độ tuổi và BMI đến kết quả lâm sàng của IUI. Đặc biệt là phát hiện được sự tương quan mật thiết giữa số chu kỳ đến kết quả IUI ở nhóm bệnh nhân lớn tuổi, với tỷ lệ mang thai cao hơn được quan sát thấy ở chu kỳ thứ hai và thứ ba so với chu kỳ đầu tiên. 
 
Nguồn: Yu, C., Bai, L., mei-Zhou, J., yu-Wang, X., Chen, L., & Zhang, J. (2024). Analysis of factors associated with IUI pregnancy outcomes in elderly and young patients. BMC Women's Health, 24(1), 86.
 
Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Cập nhật lịch tổ chức sự kiện và xuất bản ấn phẩm của ...

Năm 2020

Wyndham Legend Halong, Sáng thứ Bảy 22 . 3 . 2025 (8:30 - 11:45)

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK