Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Saturday 28-12-2024 7:04am
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
CN. Phạm Bích Vân - IVF Tâm Anh
 
Lệch bội nhiễm sắc thể ở phôi là nguyên nhân chính dẫn đến thất bại làm tổ hoặc sảy thai trong thụ tinh trong ống nghiệm (IVF). Xét nghiệm bất thường số lượng nhiễm sắc thể (Preimplantation genetic testing for aneuploidy - PGT-A) thường được sử dụng trong thực hành lâm sàng để đánh giá mức bội thể của phôi, tuy nhiên phương pháp này có tính xâm lấn và có thể gây hại đến sự phát triển của phôi. Gần đây, phương pháp sàng lọc nhiễm sắc thể không xâm lấn (Non-invasive chromosome screening - NICS) đã được nghiên cứu và cho thấy độ chính xác tương đương với PGT-A, nhưng không gây tổn hại cho phôi. Kể từ khi Stigliani và cộng sự (2013) lần đầu tiên phân tích DNA tự do (cell-free DNA - cfDNA) từ môi trường nuôi cấy để xác định bộ nhiễm sắc thể của phôi nang, phương pháp này đã trở nên có tính khả thi. Nhiều nghiên cứu sau đó cũng đã chỉ ra rằng NICS cho hiệu suất chẩn đoán gần giống với phương pháp xét nghiệm di truyền tiền làm tổ phát hiện lệch bội thông qua sinh thiết tế bào lá nuôi phôi (Trophectoderm biopsy preimplantation genetic testing for aneuploidy - TE-PGT) và có thể cải thiện tỉ lệ thai sinh sống ở phụ nữ từ 35–40 tuổi. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có báo cáo tổng hợp về các kết quả lâm sàng tích lũy của NICS ở những phụ nữ từ độ tuổi này. Nghiên cứu này nhằm xác định liệu NICS và TE-PGT có thể cải thiện tỉ lệ thai sinh sống tích lũy (cumulative live birth rate -  CLBR) ở phụ nữ từ 35–40 tuổi so với việc chọn phôi dựa trên phân loại hình thái học hay không.
 
Phương pháp:
Nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu được thực hiện trên 384 cặp vợ chồng trong độ tuổi từ 35–40 tuổi được lựa chọn từ tháng 4 năm 2017 đến tháng 5 năm 2021 tại Trung tâm Y học Sinh sản của Bệnh viện Jinling. Các bệnh nhân được phân thành ba nhóm: nhóm xét nghiệm di truyền (NICS, TE-PGT) và nhóm đối chứng ( ICSI chỉ với đánh giá hình thái phôi). Tất cả bệnh nhân đều được chuyển một phôi nang trữ. Mục tiêu là đánh giá sự ảnh hưởng của xét nghiệm di truyền lên tỉ lệ sinh thai sinh sống tích lũy cùng với kết quả phụ như tỉ lệ thai sinh hóa, tỉ lệ sảy thai và cân nặng của trẻ sơ sinh.
 
Kết quả:
So với nhóm ICSI, CLBR ở nhóm NICS và TE-PGT cao hơn đáng kể (27,9% so với 44,9% và 51,0%, p = 0,003 cho NICS so với ICSI, p < 0,001 cho TE-PGT so với ICSI). Không có sự khác biệt đáng kể về cân nặng khi sinh giữa ba nhóm (p=0,108).
Sau khi điều chỉnh các yếu tố nhiễu, CLBR của nhóm NICS (OR = 3,847, 95% KTC: 1,939 - 7,634) và nhóm TE-PGT (OR = 3,795, 95% KTC: 1,981 - 7,270) cao hơn so với nhóm ICSI. Thêm vào đó, tỉ lệ sảy thai của nhóm NICS và TE-PGT thấp hơn đáng kể so với nhóm ICSI (OR = 0,277, 95% KTC: 0,087 - 0,885; OR = 0,182, 95% KTC: 0,048 - 0,693). Không có sự khác biệt đáng kể về kết quả lâm sàng giữa nhóm NICS và TE-PGT.
 
Bàn luận:
Kỹ thuật NICS dựa trên môi trường nuôi cấy phôi được giới thiệu vào năm 2016 và đã được xác thực qua nhiều nghiên cứu trên toàn thế giới. Một số nghiên cứu đã chứng minh được tính hiệu quả và độ tin cậy của NICS, tuy nhiên hiện tại không có nghiên cứu lâm sàng nào cũng như là các nghiên cứu về tỉ lệ thai sinh sống tích lũy áp dụng ở những phụ nữ có độ tuổi từ 35-40. Đây là nghiên cứu đầu tiên báo cáo về CLBR của NICS, và kết quả cho thấy NICS có hiệu quả tương đương với TE-PGT. Kết quả từ nghiên cứu này cho thấy tỉ lệ thai sinh sống tích lũy ở nhóm NICS (44,9%) và nhóm TE-PGT (51,0%) đều cao hơn đáng kể so với nhóm ICSI (27,9%). Các kết quả khác như tỉ lệ thai lâm sàng và tỉ lệ sảy thai cũng cho thấy sự cải thiện ở nhóm NICS và TE-PGT so với nhóm ICSI. Tuy nhiên, tỉ lệ phát hiện phôi nguyên bội ở nhóm NICS (42,4%) thấp hơn so với nhóm TE-PGT (48,3%), dẫn đến tỉ lệ sinh con sống giảm nhẹ ở nhóm NICS. Nhóm ICSI thường được chọn vì sự ưu việt về hình thái học của phôi. Tuy nhiên, các bệnh nhân lớn tuổi thường ngừng việc chuyển phôi sau khi không chắc chắn về trạng thái nhiễm sắc thể của phôi, dẫn đến việc ngừng sử dụng phôi còn lại sau lần chuyển đầu tiên, trong khi những bệnh nhân sử dụng NICS hoặc PGT-A có thể tiếp tục thử nghiệm trong năm, dẫn đến tỉ lệ mang thai tích lũy của họ cao hơn so với nhóm ICSI. Ngoài ra, tỉ lệ mang thai sống tích lũy trong nghiên cứu không cao có thể do độ tuổi của bệnh nhân lớn tuổi, vốn có tỉ lệ thành công thấp hơn. Mặc dù có một số hạn chế về thiết kế nghiên cứu và việc chọn bệnh nhân, nhưng kết quả cho thấy NICS có tiềm năng lớn trong việc cải thiện kết quả điều trị vô sinh, đặc biệt là ở những bệnh nhân lớn tuổi. Nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng NICS có thể là một phương pháp thay thế không xâm lấn hiệu quả, mặc dù cần thêm nghiên cứu và thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên để xác nhận tính chính xác và lợi ích của NICS trong việc cải thiện kết quả mang thai.
 
Kết luận:
Nhìn chung, khi so với đánh giá hình thái phôi, cả NICS và TE-PGT có thể làm tăng tỉ lệ thai sinh sống tích lũy ở phụ nữ có độ tuổi từ 35-40 và giảm tỉ lệ sảy thai. Không có sự khác biệt đáng kể về CLBR giữa nhóm NICS và TE-PGT. Nghiên cứu này chứng minh rằng NICS có thể trở thành một lựa chọn thay thế cho TE-PGT trong tương lai.
 
Nguồn: Sun, Q., Xu, J., Yao, Y., Huang, X., Zhao, D., Lu, S., ... & Chen, L. (2024). Efficacy of non-invasive chromosome screening, preimplantation genetic testing for aneuploidy, and morphological grading in selecting embryos of patients with advanced maternal age: a three-armed prospective cohort study. BMC Pregnancy and Childbirth, 24(1), 545.

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Cập nhật lịch tổ chức sự kiện và xuất bản ấn phẩm của ...

Năm 2020

Wyndham Legend Halong, Sáng thứ Bảy 22 . 3 . 2025 (8:30 - 11:45)

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK