Tin tức
on Saturday 28-12-2024 6:11am
Danh mục: Tin quốc tế
ThS. Đào Hữu Nghị - IVFMD Phú Nhuận, Bệnh viện Mỹ Đức Phú Nhuận
Sự phát triển của phôi nang liên quan đến một loạt các sự kiện được sắp xếp một cách hợp lý diễn ra trước quá trình làm tổ. Trước khi làm tổ, áp suất do phôi nang giãn nở sẽ gây vỡ màng trong suốt (ZP – Zona pellucida) và lớp glycoprotein không có tế bào bao quanh phôi nang. Sự thành công của thai kỳ phụ thuộc vào đặc tính sinh học của phôi nang về khả năng thoát màng. Người ta tin rằng việc tiếp xúc lâu dài với các điều kiện nhân tạo, bao gồm: môi trường nuôi cấy trong ống nghiệm và đông lạnh sẽ làm thay đổi lớp màng trong suốt và quá trình thoát màng của phôi do lớp màng trong suốt bị cứng lại và dẫn đến suy giảm khả năng làm tổ của phôi. Do đó, phương pháp hỗ trợ phôi thoát màng (AH - Assisted hatching) đã được ứng dụng để cải thiện cơ hội làm tổ cho bệnh nhân trong điều trị bằng công nghệ hỗ trợ sinh sản.
Gần đây, hệ thống laser đã trở thành công nghệ phổ biến nhất cho AH so với các phương pháp cơ học hoặc các hóa học đã được đề xuất trước đây. Quy trình này có thể được thực hiện vào ngày thứ 3 hoặc ngày thứ 5 – 7 trong quá trình phát triển của phôi, được thực hiển ở cả nhóm phôi tươi hoặc phôi đông lạnh và ở các nhóm bệnh nhân khác nhau (tuổi mẹ cao hoặc bệnh nhân thất bại làm tổ nhiều lần). Quy trình này có thể bao gồm các thao tác trên màng trong suốt như: tạo lỗ, làm mỏng hoặc phá vỡ màng với các kích thước khác nhau. Mặc dù đây là một kỹ thuật được sử dụng phổ biến nhưng hiệu quả chung của AH vẫn là chủ đề đang gây tranh cãi và còn được nghiên cứu. Hầu hết sự nhầm lẫn có thể là do bản chất rất khác nhau của các quy trình AH về thời điểm và phương pháp áp dụng, điều này có thể dẫn đến những tác động rất khác nhau đến động học thoát màng của phôi. Gần đây, AH không được khuyến nghị trong các khuyến nghị thực hành tốt của Hiệp hội Sinh sản và Phôi học châu Âu (ESHRE 2023), dựa trên đánh giá Cochrane gần đây nhất cho thấy không có tác dụng đáng kể nào của nhóm AH đối với tỷ lệ trẻ sinh sống so với nhóm không AH. Bên cạnh đó, Hiệp hội Y học Sinh sản Hoa Kỳ (ASRM 2022) cũng đã đưa ra các khuyến nghị tương tự.
Do tính hợp lý về khả năng sinh học để loại bỏ nhân tạo một phần màng trong suốt ở những phôi đông lạnh do có thể xảy ra tình trạng màng trong suốt bị cứng và số lượng thử nghiệm lâm sàng còn hạn chế trên phôi nang đông lạnh. Do đó, nhóm nghiên cứu đã thiết lập một thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên đa trung tâm (RCT) để đánh giá hiệu quả của laser AH trên phôi đông lạnh ngày 5 – 7 trong việc cải thiện tỷ lệ trẻ sinh sống.
Nghiên cứu thực hiện từ tháng 9 năm 2018 đến tháng 11 năm 2021, thỏa các tiêu chí sau:
Bất thường ở tử cung (lạc nội mạc tử cung, u cơ dưới niêm mạc, tử cung có vách ngăn và polyp nội mạc tử cung), chỉ số khối cơ thể >35 kg/m2, vô sinh do yếu tố nam nặng (sử dụng tinh trùng lấy được bằng phẫu thuật) hoặc đang thực hiện xét nghiệm di truyền trước khi làm tổ bị loại trừ.
Ngay sau khi rã phôi, hỗ trợ thoát màng bằng laser được thực hiện bằng chùm tia laser diode 1480 nm. Tạo một lỗ mở trên màng trong suốt ở vị trí 1 giờ với xung 0,2 ms. Các lần bắn laser liên tiếp được thực hiện để đạt đến vị trí 5 giờ của phôi nang để loại bỏ gần 1/3 bề mặt được của màng trong suốt tương ứng với một cung tròn có kích thước khoảng 200 ± 20 mm.
Tổng cộng có 698 người tham gia đáp ứng các tiêu chí và được phân ngẫu nhiên vào 2 nhóm: nhóm AH (352 bệnh nhân) và nhóm không AH (346 bệnh nhân).
Tóm lại, nghiên cứu cho thấy không có cải thiện về tỷ lệ trẻ sinh sống khi thực hiện AH bằng laser trên phôi nang đông lạnh. Do đó, quy trình này không nên được khuyến nghị cho tất cả bệnh nhân chuyển phôi nang đông lạnh. Tuy nhiên, cần có thêm các nghiên cứu để đánh giá các lợi ích tiềm năng trong các phân nhóm bệnh nhân cụ thể.
Nguồn: Alteri A, Reschini M, Guarneri C, Bandini V, Bertapelle G, Pinna M, Rabellotti E, Ferrari S, Papaleo E, Paffoni A, Viganò P, Somigliana E. The effect of laser-assisted hatching on vitrified/warmed blastocysts: the ALADDIN randomized controlled trial. Fertil Steril. 2024 Jul;122(1):106-113.
Link bài báo: https://linkinghub.elsevier.com/retrieve/pii/S0015-0282(24)00091-8
Sự phát triển của phôi nang liên quan đến một loạt các sự kiện được sắp xếp một cách hợp lý diễn ra trước quá trình làm tổ. Trước khi làm tổ, áp suất do phôi nang giãn nở sẽ gây vỡ màng trong suốt (ZP – Zona pellucida) và lớp glycoprotein không có tế bào bao quanh phôi nang. Sự thành công của thai kỳ phụ thuộc vào đặc tính sinh học của phôi nang về khả năng thoát màng. Người ta tin rằng việc tiếp xúc lâu dài với các điều kiện nhân tạo, bao gồm: môi trường nuôi cấy trong ống nghiệm và đông lạnh sẽ làm thay đổi lớp màng trong suốt và quá trình thoát màng của phôi do lớp màng trong suốt bị cứng lại và dẫn đến suy giảm khả năng làm tổ của phôi. Do đó, phương pháp hỗ trợ phôi thoát màng (AH - Assisted hatching) đã được ứng dụng để cải thiện cơ hội làm tổ cho bệnh nhân trong điều trị bằng công nghệ hỗ trợ sinh sản.
Gần đây, hệ thống laser đã trở thành công nghệ phổ biến nhất cho AH so với các phương pháp cơ học hoặc các hóa học đã được đề xuất trước đây. Quy trình này có thể được thực hiện vào ngày thứ 3 hoặc ngày thứ 5 – 7 trong quá trình phát triển của phôi, được thực hiển ở cả nhóm phôi tươi hoặc phôi đông lạnh và ở các nhóm bệnh nhân khác nhau (tuổi mẹ cao hoặc bệnh nhân thất bại làm tổ nhiều lần). Quy trình này có thể bao gồm các thao tác trên màng trong suốt như: tạo lỗ, làm mỏng hoặc phá vỡ màng với các kích thước khác nhau. Mặc dù đây là một kỹ thuật được sử dụng phổ biến nhưng hiệu quả chung của AH vẫn là chủ đề đang gây tranh cãi và còn được nghiên cứu. Hầu hết sự nhầm lẫn có thể là do bản chất rất khác nhau của các quy trình AH về thời điểm và phương pháp áp dụng, điều này có thể dẫn đến những tác động rất khác nhau đến động học thoát màng của phôi. Gần đây, AH không được khuyến nghị trong các khuyến nghị thực hành tốt của Hiệp hội Sinh sản và Phôi học châu Âu (ESHRE 2023), dựa trên đánh giá Cochrane gần đây nhất cho thấy không có tác dụng đáng kể nào của nhóm AH đối với tỷ lệ trẻ sinh sống so với nhóm không AH. Bên cạnh đó, Hiệp hội Y học Sinh sản Hoa Kỳ (ASRM 2022) cũng đã đưa ra các khuyến nghị tương tự.
Do tính hợp lý về khả năng sinh học để loại bỏ nhân tạo một phần màng trong suốt ở những phôi đông lạnh do có thể xảy ra tình trạng màng trong suốt bị cứng và số lượng thử nghiệm lâm sàng còn hạn chế trên phôi nang đông lạnh. Do đó, nhóm nghiên cứu đã thiết lập một thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên đa trung tâm (RCT) để đánh giá hiệu quả của laser AH trên phôi đông lạnh ngày 5 – 7 trong việc cải thiện tỷ lệ trẻ sinh sống.
Nghiên cứu thực hiện từ tháng 9 năm 2018 đến tháng 11 năm 2021, thỏa các tiêu chí sau:
- Tuổi 18-39.
- Tự thân.
- Chuyển đơn phôi nang đông lạnh.
Bất thường ở tử cung (lạc nội mạc tử cung, u cơ dưới niêm mạc, tử cung có vách ngăn và polyp nội mạc tử cung), chỉ số khối cơ thể >35 kg/m2, vô sinh do yếu tố nam nặng (sử dụng tinh trùng lấy được bằng phẫu thuật) hoặc đang thực hiện xét nghiệm di truyền trước khi làm tổ bị loại trừ.
Ngay sau khi rã phôi, hỗ trợ thoát màng bằng laser được thực hiện bằng chùm tia laser diode 1480 nm. Tạo một lỗ mở trên màng trong suốt ở vị trí 1 giờ với xung 0,2 ms. Các lần bắn laser liên tiếp được thực hiện để đạt đến vị trí 5 giờ của phôi nang để loại bỏ gần 1/3 bề mặt được của màng trong suốt tương ứng với một cung tròn có kích thước khoảng 200 ± 20 mm.
Tổng cộng có 698 người tham gia đáp ứng các tiêu chí và được phân ngẫu nhiên vào 2 nhóm: nhóm AH (352 bệnh nhân) và nhóm không AH (346 bệnh nhân).
- Kết quả cho thấy tỷ lệ trẻ sinh sống trên mỗi phôi nang ngẫu nhiên không có sự khác biệt đáng kể giữa nhóm AH so với không AH. Tỷ lệ trẻ sinh sống ở nhóm AH là 29,8% và nhóm không AH là 29,2%, (p=0,87). Nguy cơ tương đối của trẻ sinh sống ở những bệnh nhân chuyển phôi nang đông lạnh được thực hiện AH là 1,02 (95%, khoảng tin cậy 0,86–1,19; p=0,85).
- Không có sự khác biệt đáng kể nào giữa nhóm AH so với nhóm không AH về kết quả: Tỷ lệ thai lâm sàng (37% so với 36%, p=0,94); tỷ lệ đa thai (1% so với 3%, p=0,21); và tỷ lệ sảy thai (17% so với 17%, p=1,00).
Tóm lại, nghiên cứu cho thấy không có cải thiện về tỷ lệ trẻ sinh sống khi thực hiện AH bằng laser trên phôi nang đông lạnh. Do đó, quy trình này không nên được khuyến nghị cho tất cả bệnh nhân chuyển phôi nang đông lạnh. Tuy nhiên, cần có thêm các nghiên cứu để đánh giá các lợi ích tiềm năng trong các phân nhóm bệnh nhân cụ thể.
Nguồn: Alteri A, Reschini M, Guarneri C, Bandini V, Bertapelle G, Pinna M, Rabellotti E, Ferrari S, Papaleo E, Paffoni A, Viganò P, Somigliana E. The effect of laser-assisted hatching on vitrified/warmed blastocysts: the ALADDIN randomized controlled trial. Fertil Steril. 2024 Jul;122(1):106-113.
Link bài báo: https://linkinghub.elsevier.com/retrieve/pii/S0015-0282(24)00091-8
Các tin khác cùng chuyên mục:










TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Cập nhật lịch tổ chức sự kiện và xuất bản ấn phẩm của ...
Năm 2020
Wyndham Legend Halong, Sáng thứ Bảy 22 . 3 . 2025 (8:30 - 11:45)
Năm 2020
Quinter Central Nha Trang, chiều thứ bảy 11.1.2025 (13:00 - 17:00)
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
FACEBOOK