Tin tức
on Friday 13-12-2024 3:11pm
Danh mục: Tin quốc tế
ThS. Nguyễn Huỳnh Cẩm Tú – IVF Tâm Anh
Giới thiệu
Tỷ lệ mang thai trong thụ tinh ống nghiệm (in vitro fertilization – IVF) dao động từ 30-70% tùy thuộc vào độ tuổi của bệnh nhân, BMI, yếu tố tử cung và buồng trứng, liều thuốc và phác đồ điều trị cũng như chuyển phôi tươi hay trữ.
Một số nghiên cứu ở các vùng khí hậu khác nhau phát hiện sự ảnh hưởng đáng kể của mùa trong năm đối với kết quả IVF, trong đó tỷ lệ mang thai tăng trong mùa hè hoặc mùa xuân tùy nghiên cứu. Chất lượng noãn là yếu tố chủ yếu vì sự phát triển phôi bắt đầu từ tế bào này và có thể bị ảnh hưởng trực tiếp bởi mùa.
Từ những yếu tố trên, nhóm nghiên cứu đặt mục tiêu xác định tác động của mùa đối với chất lượng noãn ở phụ nữ thực hiện kích thích buồng trứng cho IVF.
Phương pháp
Nghiên cứu hồi cứu cắt ngang từ 155 phụ nữ thực hiện IVF, trong đó 71 chu kỳ (788 noãn) vào mùa hè và 84 chu kỳ (718 noãn) vào mùa đông. Những phụ nữ này có độ tuổi từ 18–35 tuổi và thoả tiêu chí chất lượng noãn tốt, số lượng noãn và dự trữ buồng trứng bình thường (tiêu chuẩn Bologna và Poseidon). Những bệnh nhân có tiền sử dự trữ buồng trứng thấp, suy giảm chất lượng noãn do xạ trị vùng chậu hoặc hóa trị, cắt buồng trứng hoặc phẫu thuật tạo hình buồng trứng, rối loạn di truyền, bệnh lý tuyến giáp và tăng prolactin bị loại khỏi nghiên cứu. Bất thường hình thái noãn được chia thành 3 nhóm theo Nikiforov: nhóm 1 - noãn tốt (bào tương đồng nhất, hình dạng tròn/ bầu dục, thể cực tròn/ bầu dục với kích thước vừa phải, màng zona pellucida (ZP) không màu và khoang quanh noãn (PVS) nhỏ/ không có), nhóm 2 - noãn trung bình (có thể vùi, thể cực phân mảnh, ZP đậm và các bất thường khác của ZP, PVS rộng và có phân mảnh) và nhóm 3 - noãn xấu (có 1 không bào lớn hoặc nhiều không bào nhỏ, CLG, và SER).
Kết quả
Có 14 dị dạng hình thái noãn được ghi nhận. Trong đó, 4 loại xuất hiện nhiều hơn đáng kể trong các chu kỳ mùa đông là ZP dày (p<0,001), PVS rộng (p<0,001), bất thường hình dạng noãn (p=0,01) và bào tương hạt (p<0,001). Ngược lại, các thể vùi xuất hiện nhiều hơn trong các chu kỳ mùa hè (p<0,0001).
Theo phân loại của Nikiforov, các chu kỳ mùa đông có tỷ lệ noãn nhóm 3 cao hơn (bào tương hạt: 78,0% so với 70,3%, p<0,001), tỷ lệ noãn nhóm 2 cũng cao hơn (ZP dày: 81,5% so với 86,0%, p<0,001), và tỷ lệ noãn nhóm 1 thấp hơn (13,0% so với 19,0%, p<0,001).
Bàn luận
Bất thường trong quá trình sản xuất hoặc trong cấu trúc của glycoprotein màng tế bào có thể gây ra sự thay đổi hình thái ZP. Thay đổi nhỏ trong cấu trúc không gian ZP phổ biến hơn thay đổi độ dày hoặc mất hoàn toàn ZP. Nhiều nghiên cứu không tìm thấy tương quan giữa độ dày ZP và tỷ lệ thụ tinh, hình thái noãn, sự phát triển phôi hoặc thai lâm sàng. Các nghiên cứu khác cho thấy khoảng 1/3 noãn có PVS rộng - giảm tỷ lệ thụ tinh và chất lượng phôi. PVS rộng có thể xuất hiện trong noãn quá già hoặc khi một phần bào tương trồi ra khỏi noãn trong quá trình hình thành thể cực.
Bào tương hạt có thể thay đổi sự phát triển và khả năng làm tổ của phôi; nhưng ảnh hưởng này vẫn chưa rõ ràng. Độ hạt bào tương chưa được phân loại cụ thể trong y văn và có thể phụ thuộc vào kính hiển vi sử dụng. Bào tương hạt khác với các thành phần khác trong bào tương như thể vùi, thể lipofuscin, hoặc các cụm bào quan. Nghiên cứu này không ghi nhận mối liên hệ giữa những thành phần này với tỷ lệ thụ tinh, chất lượng phôi hoặc tỷ lệ làm tổ. Các nghiên cứu khác báo cáo kết quả khác nhau đối với noãn CLG như hình thái tiền nhân bất thường, giảm chất lượng phôi, giảm khả năng sống và phát triển in vitro của phôi sau rã. Có một nghiên cứu không ghi nhận sự liên quan giữa CLG và tỷ lệ thụ tinh, sự phát triển phôi hay tỷ lệ mang thai nhưng tỷ lệ thai diễn tiến bị suy giảm nghiêm trọng.
Kết quả nghiên cứu này có thể sai lệch do nơi sống của bệnh nhân không được phân tích nên bệnh nhân có thể không tiếp xúc với sự biến đổi theo mùa tại nơi nghiên cứu. Ngoài ra, nghiên cứu chỉ tập trung vào mùa đông và mùa hè, có thể bỏ qua sự biến thiên vào các thời điểm khác trong năm. Vì vậy cần thêm các nghiên cứu toàn diện hơn để bao quát các biến đổi theo mùa.
Kết luận
Khoảng 70–80% noãn có hình thái bất thường và nhiều hơn vào mùa đông. Các bất thường phổ biến thường là ZP dày, PVS rộng, hình dạng bất thường và bào tương hạt. Nghiên cứu này cho thấy noãn được tạo ra trong mùa hè có chất lượng tốt hơn mùa đông.
Tài liệu tham khảo: Cho RY, Aseka MM, Toso KNFD, Passos AW, Kulak Junior J, Amaral VFD, Araujo Júnior E. Summer versus winter: the impact of the seasons on oocyte quality in in vitro fertilization cycles. Rev Assoc Med Bras (1992). 2024 Sep 16;70(9):e20240408. https://doi.org/10.1590/1806-9282.20240408
Giới thiệu
Tỷ lệ mang thai trong thụ tinh ống nghiệm (in vitro fertilization – IVF) dao động từ 30-70% tùy thuộc vào độ tuổi của bệnh nhân, BMI, yếu tố tử cung và buồng trứng, liều thuốc và phác đồ điều trị cũng như chuyển phôi tươi hay trữ.
Một số nghiên cứu ở các vùng khí hậu khác nhau phát hiện sự ảnh hưởng đáng kể của mùa trong năm đối với kết quả IVF, trong đó tỷ lệ mang thai tăng trong mùa hè hoặc mùa xuân tùy nghiên cứu. Chất lượng noãn là yếu tố chủ yếu vì sự phát triển phôi bắt đầu từ tế bào này và có thể bị ảnh hưởng trực tiếp bởi mùa.
Từ những yếu tố trên, nhóm nghiên cứu đặt mục tiêu xác định tác động của mùa đối với chất lượng noãn ở phụ nữ thực hiện kích thích buồng trứng cho IVF.
Phương pháp
Nghiên cứu hồi cứu cắt ngang từ 155 phụ nữ thực hiện IVF, trong đó 71 chu kỳ (788 noãn) vào mùa hè và 84 chu kỳ (718 noãn) vào mùa đông. Những phụ nữ này có độ tuổi từ 18–35 tuổi và thoả tiêu chí chất lượng noãn tốt, số lượng noãn và dự trữ buồng trứng bình thường (tiêu chuẩn Bologna và Poseidon). Những bệnh nhân có tiền sử dự trữ buồng trứng thấp, suy giảm chất lượng noãn do xạ trị vùng chậu hoặc hóa trị, cắt buồng trứng hoặc phẫu thuật tạo hình buồng trứng, rối loạn di truyền, bệnh lý tuyến giáp và tăng prolactin bị loại khỏi nghiên cứu. Bất thường hình thái noãn được chia thành 3 nhóm theo Nikiforov: nhóm 1 - noãn tốt (bào tương đồng nhất, hình dạng tròn/ bầu dục, thể cực tròn/ bầu dục với kích thước vừa phải, màng zona pellucida (ZP) không màu và khoang quanh noãn (PVS) nhỏ/ không có), nhóm 2 - noãn trung bình (có thể vùi, thể cực phân mảnh, ZP đậm và các bất thường khác của ZP, PVS rộng và có phân mảnh) và nhóm 3 - noãn xấu (có 1 không bào lớn hoặc nhiều không bào nhỏ, CLG, và SER).
Kết quả
Có 14 dị dạng hình thái noãn được ghi nhận. Trong đó, 4 loại xuất hiện nhiều hơn đáng kể trong các chu kỳ mùa đông là ZP dày (p<0,001), PVS rộng (p<0,001), bất thường hình dạng noãn (p=0,01) và bào tương hạt (p<0,001). Ngược lại, các thể vùi xuất hiện nhiều hơn trong các chu kỳ mùa hè (p<0,0001).
Theo phân loại của Nikiforov, các chu kỳ mùa đông có tỷ lệ noãn nhóm 3 cao hơn (bào tương hạt: 78,0% so với 70,3%, p<0,001), tỷ lệ noãn nhóm 2 cũng cao hơn (ZP dày: 81,5% so với 86,0%, p<0,001), và tỷ lệ noãn nhóm 1 thấp hơn (13,0% so với 19,0%, p<0,001).
Bàn luận
Bất thường trong quá trình sản xuất hoặc trong cấu trúc của glycoprotein màng tế bào có thể gây ra sự thay đổi hình thái ZP. Thay đổi nhỏ trong cấu trúc không gian ZP phổ biến hơn thay đổi độ dày hoặc mất hoàn toàn ZP. Nhiều nghiên cứu không tìm thấy tương quan giữa độ dày ZP và tỷ lệ thụ tinh, hình thái noãn, sự phát triển phôi hoặc thai lâm sàng. Các nghiên cứu khác cho thấy khoảng 1/3 noãn có PVS rộng - giảm tỷ lệ thụ tinh và chất lượng phôi. PVS rộng có thể xuất hiện trong noãn quá già hoặc khi một phần bào tương trồi ra khỏi noãn trong quá trình hình thành thể cực.
Bào tương hạt có thể thay đổi sự phát triển và khả năng làm tổ của phôi; nhưng ảnh hưởng này vẫn chưa rõ ràng. Độ hạt bào tương chưa được phân loại cụ thể trong y văn và có thể phụ thuộc vào kính hiển vi sử dụng. Bào tương hạt khác với các thành phần khác trong bào tương như thể vùi, thể lipofuscin, hoặc các cụm bào quan. Nghiên cứu này không ghi nhận mối liên hệ giữa những thành phần này với tỷ lệ thụ tinh, chất lượng phôi hoặc tỷ lệ làm tổ. Các nghiên cứu khác báo cáo kết quả khác nhau đối với noãn CLG như hình thái tiền nhân bất thường, giảm chất lượng phôi, giảm khả năng sống và phát triển in vitro của phôi sau rã. Có một nghiên cứu không ghi nhận sự liên quan giữa CLG và tỷ lệ thụ tinh, sự phát triển phôi hay tỷ lệ mang thai nhưng tỷ lệ thai diễn tiến bị suy giảm nghiêm trọng.
Kết quả nghiên cứu này có thể sai lệch do nơi sống của bệnh nhân không được phân tích nên bệnh nhân có thể không tiếp xúc với sự biến đổi theo mùa tại nơi nghiên cứu. Ngoài ra, nghiên cứu chỉ tập trung vào mùa đông và mùa hè, có thể bỏ qua sự biến thiên vào các thời điểm khác trong năm. Vì vậy cần thêm các nghiên cứu toàn diện hơn để bao quát các biến đổi theo mùa.
Kết luận
Khoảng 70–80% noãn có hình thái bất thường và nhiều hơn vào mùa đông. Các bất thường phổ biến thường là ZP dày, PVS rộng, hình dạng bất thường và bào tương hạt. Nghiên cứu này cho thấy noãn được tạo ra trong mùa hè có chất lượng tốt hơn mùa đông.
Tài liệu tham khảo: Cho RY, Aseka MM, Toso KNFD, Passos AW, Kulak Junior J, Amaral VFD, Araujo Júnior E. Summer versus winter: the impact of the seasons on oocyte quality in in vitro fertilization cycles. Rev Assoc Med Bras (1992). 2024 Sep 16;70(9):e20240408. https://doi.org/10.1590/1806-9282.20240408
Các tin khác cùng chuyên mục:
Tác động của Bisphenol A và các chất thay thế đối với chất lượng noãn: đánh giá tổng hợp - Ngày đăng: 09-12-2024
Sử dụng sóng siêu âm tần số cao để cải thiện độ di động của tinh trùng - Ngày đăng: 07-12-2024
Ảnh hưởng của số lượng và chất lượng phôi nang được chuyển đến kết cục sinh sản trong các chu kỳ chuyển phôi trữ - Ngày đăng: 06-12-2024
Độ dày nội mạc tử cung phù hợp vào ngày chuyển phôi có thể giảm tỉ lệ thai ngoài tử cung và cải thiện tỉ lệ thai lâm sàng - Ngày đăng: 04-12-2024
Đánh giá độ tin cậy của việc đo hormone androgen trong chẩn đoán hội chứng buồng trứng đa nang: tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp - Ngày đăng: 03-12-2024
Bảo quản phôi nang chất lượng tốt bằng thủy tinh hóa trong hơn 5 năm làm giảm tỷ lệ làm tổ và trẻ sinh sống - Ngày đăng: 01-12-2024
Giải trình tự RNA tế bào đơn cho thấy bức tranh toàn cảnh về biểu hiện gen và các mục tiêu tiềm năng cho quá trình lão hóa tinh hoàn ở người - Ngày đăng: 01-12-2024
Kết quả xét nghiệm di truyền tiền làm tổ phôi có nguồn gốc từ hợp tử một tiền nhân (1PN) - Ngày đăng: 01-12-2024
Vi mất đoạn AZFc và kết quả hỗ trợ sinh sản: một tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp - Ngày đăng: 29-11-2024
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Quinter Central Nha Trang, chiều thứ bảy 11.1.2025 (13:00 - 17:00)
Năm 2020
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK