Tin tức
on Saturday 08-06-2024 7:59am
Danh mục: Tin quốc tế
BS. Nguyễn Tấn Minh – Bệnh viện đa khoa Mỹ Đức
Trong vòng 20 năm trở lại đây, các bác sĩ thực hành lâm sàng trong lĩnh vực hỗ trợ sinh sản (HTSS) ngày càng có xu hướng chỉ định thực hiện xét nghiệm di truyền tiền làm tổ (Preimplantation genetic testing for aneuploidy, PGT-A) trong dân số chung và kỹ thuật tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (Intra-Cytoplasmic Sperm Injection – ICSI) ở những cặp vợ chồng hiếm muộn không do yếu tố người chồng trong khi lợi ích mang lại chưa rõ ràng.
Vào năm 2015, hội thảo Capri được tổ chức bởi Hội Sinh sản và Phôi học Châu Âu (European Society of Human Reproduction and Embryology – ESHRE) đã đề cập vấn đề thiếu hụt các bằng chứng về mặt kinh tế trước khi thực hiện các can thiệp điều trị hiếm muộn trong thực hành lâm sàng. Áp dụng các biện pháp điều trị khi chưa phân tích đầy đủ lợi ích về mặt kinh tế được các nhà nghiên cứu mô tả bằng thuật ngữ “lạm dụng kỹ thuật điều trị”. Tương tự, một bài tổng quan được công bố năm 2002 đề cập đến hiệu quả kinh tế của các kỹ thuật HTSS cũng cho rằng đánh giá về mặt kinh tế có thể được cải thiện trong tương lai khi có những bằng chứng thuyết phục.
Chi phí điều trị hiếm muộn vẫn là một rào cản cho các cặp vợ chồng mong con; các trung tâm HTSS thường dựa vào chi phí để loại bỏ hoặc hạn chế việc sử dụng các kỹ thuật HTSS. Tuy vậy, các kỹ thuật HTSS bổ trợ chi phí cao vẫn tiếp tục được sử dụng trên thế giới một cách thường quy mặc dù chưa đủ bằng chứng thuyết phục cho thấy việc sử dụng chúng mang lại giá trị về mặt kinh tế. Vì vậy, cần có thêm những nghiên cứu nhằm cải thiện hiệu quả về kinh tế khi thực hiện các kỹ thuật HTSS.
Bài tổng quan của nhóm tác giả Emily Olive và cộng sự đã phân tích lợi ích kinh tế của các kỹ thuật HTSS không được sử dụng phổ biến cách đây 20 năm, đưa ra các số liệu giúp các trung tâm HTSS đưa ra quyết định đầu tư kỹ thuật điều trị nhằm tối ưu hóa khả năng sinh ra một trẻ khỏe mạnh.
Số liệu từ bài tổng quan thu thập từ dân số ở 11 quốc gia có thu nhập cao giai đoạn 2011-2022, bao gồm 40 nghiên cứu liên quan đến đánh giá về mặt kinh tế khi điều trị hiếm muộn bằng các kỹ thuật HTSS. Kết quả chỉ ra xét nghiệm PGT-A thực hiện ở dân số chung và ICSI đối với những trường hợp hiếm muộn chưa rõ nguyên nhân không mang lại hiệu quả về mặt kinh tế vì chúng không cải thiện tỷ lệ thụ thai cũng như tỷ lệ trẻ sinh sống.
Các can thiệp điều trị hiếm muộn được phân tích về mặt kinh tế bao gồm: thuốc/phác đồ kích thích buồng trứng, thụ tinh trong ống nghiệm, PGT-A, chuyển đơn phôi, ICSI, trữ phôi toàn bộ. Các nghiên cứu với các kỹ thuật HTSS khác ngoài chỉ định điều trị hiếm muộn như trữ noãn không được đưa vào bài tổng quan.
Đặc điểm đối tượng nghiên cứu bao gồm tiên lượng đáp ứng từ kém đến nhiều, với kết cục chính được báo cáo là tỷ lệ trẻ sinh sống. Các kết cục phụ gồm tỷ lệ thai diễn tiến và số năm sống có chất lượng (Quality-adjusted life year - QALY). Một nửa các nghiên cứu được thực hiện ở Châu Âu và phần lớn (85%) đánh giá hiệu quả về chi phí của các kỹ thuật HTSS dưới góc nhìn của nhà cung ứng.
Các kết quả thu được cho thấy:
Thêm vào đó, nhóm tác giả thừa nhận rằng số liệu về các kỹ thuật HTSS còn hạn chế do các nghiên cứu phân tích tính kinh tế khi thực hiện các can thiệp bổ trợ trong quá trình điều trị HTSS chưa từng được đề cập trước đây. Hơn nữa, không phải các nghiên cứu đều có mức độ bằng chứng mạnh. Vì thế các tác giả lưu ý độc giả nên cẩn thận khi xem qua bài tổng quan này. Bất kỳ nghiên cứu nào phân tích tính kinh tế và lợi ích của các kỹ thuật HTSS cần được dựa trên dữ liệu đáng tin cậy nhằm mục đích hạn chế sự thiên lệch.
Bên cạnh đó, không có nghiên cứu nào trong bài tổng quan đề cập đến sự lựa chọn kỹ thuật điều trị hiếm muộn của bệnh nhân. Nhóm tác giả cho rằng cần phải quan tâm đến khía cạnh này vì có một số loại thuốc cũng như kỹ thuật có thể làm tăng nguy cơ trong thai kỳ và gây ảnh hưởng đến kết cục của trẻ khi sinh ra.
Một trong những điểm hạn chế của nghiên cứu chính là việc dữ liệu chỉ được thu thập từ những quốc gia có thu nhập cao, vì thế cần lựa chọn chiến lược tiếp cận phù hợp đối với những quốc gia thu nhập từ thấp đến trung bình.
Tóm lại, các dữ liệu về chi phí dành cho lĩnh vực HTSS có giá trị vì các nghiên cứu ghi nhận tỷ lệ thụ thai có liên quan mật thiết năng suất lao động, nguyên nhân là do tỷ lệ người dân trong độ tuổi lao động đang trên đà sụt giảm trong khi chi phí chăm sóc dành cho người lớn tuổi ngày càng tăng. Vì vậy, bài tổng quan của nhóm tác giả trên rất có ý nghĩa trong thực hành lâm sàng, giúp các bác sĩ cân nhắc kỹ mỗi khi đưa ra thêm các chỉ định sử dụng những kỹ thuật bổ trợ trong HTSS vì có thể sẽ không mang lại lợi ích kinh tế cho người bệnh trong khi kết quả mong đợi không có sự khác biệt.
Tuy nhiên, bài toán làm sao để cải thiện hiệu quả kinh tế khi thực hiện các kỹ thuật HTSS vẫn chưa có lời giải đáp vì chưa có đủ dữ liệu chất lượng cao. Các nghiên cứu trong lĩnh vực HTSS trong tương lai nên thu thập dữ liệu về tuổi thai khi trẻ sinh ra và cân nặng của trẻ lúc sinh đối với từng can thiệp được sử dụng trong quá trình thụ tinh trong ống nghiệm. Từ đó, có thể giúp đánh giá sức khỏe của trẻ về sau và chi phí giáo dục những trẻ nhẹ cân so với tuổi thai khi sinh ra; cuối cùng làm cải thiện hiệu quả về kinh tế.
Lược dịch từ: Focus on Reproduction - ESHRE. 2024 [cited 2024 May 6]. High-cost ART is not cost-effective suggests systematic review. Available from: https://www.focusonreproduction.eu/science-and-reproduction/high-cost-art-is-not-cost-effective-suggests-systematic-review/
Trong vòng 20 năm trở lại đây, các bác sĩ thực hành lâm sàng trong lĩnh vực hỗ trợ sinh sản (HTSS) ngày càng có xu hướng chỉ định thực hiện xét nghiệm di truyền tiền làm tổ (Preimplantation genetic testing for aneuploidy, PGT-A) trong dân số chung và kỹ thuật tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (Intra-Cytoplasmic Sperm Injection – ICSI) ở những cặp vợ chồng hiếm muộn không do yếu tố người chồng trong khi lợi ích mang lại chưa rõ ràng.
Vào năm 2015, hội thảo Capri được tổ chức bởi Hội Sinh sản và Phôi học Châu Âu (European Society of Human Reproduction and Embryology – ESHRE) đã đề cập vấn đề thiếu hụt các bằng chứng về mặt kinh tế trước khi thực hiện các can thiệp điều trị hiếm muộn trong thực hành lâm sàng. Áp dụng các biện pháp điều trị khi chưa phân tích đầy đủ lợi ích về mặt kinh tế được các nhà nghiên cứu mô tả bằng thuật ngữ “lạm dụng kỹ thuật điều trị”. Tương tự, một bài tổng quan được công bố năm 2002 đề cập đến hiệu quả kinh tế của các kỹ thuật HTSS cũng cho rằng đánh giá về mặt kinh tế có thể được cải thiện trong tương lai khi có những bằng chứng thuyết phục.
Chi phí điều trị hiếm muộn vẫn là một rào cản cho các cặp vợ chồng mong con; các trung tâm HTSS thường dựa vào chi phí để loại bỏ hoặc hạn chế việc sử dụng các kỹ thuật HTSS. Tuy vậy, các kỹ thuật HTSS bổ trợ chi phí cao vẫn tiếp tục được sử dụng trên thế giới một cách thường quy mặc dù chưa đủ bằng chứng thuyết phục cho thấy việc sử dụng chúng mang lại giá trị về mặt kinh tế. Vì vậy, cần có thêm những nghiên cứu nhằm cải thiện hiệu quả về kinh tế khi thực hiện các kỹ thuật HTSS.
Bài tổng quan của nhóm tác giả Emily Olive và cộng sự đã phân tích lợi ích kinh tế của các kỹ thuật HTSS không được sử dụng phổ biến cách đây 20 năm, đưa ra các số liệu giúp các trung tâm HTSS đưa ra quyết định đầu tư kỹ thuật điều trị nhằm tối ưu hóa khả năng sinh ra một trẻ khỏe mạnh.
Số liệu từ bài tổng quan thu thập từ dân số ở 11 quốc gia có thu nhập cao giai đoạn 2011-2022, bao gồm 40 nghiên cứu liên quan đến đánh giá về mặt kinh tế khi điều trị hiếm muộn bằng các kỹ thuật HTSS. Kết quả chỉ ra xét nghiệm PGT-A thực hiện ở dân số chung và ICSI đối với những trường hợp hiếm muộn chưa rõ nguyên nhân không mang lại hiệu quả về mặt kinh tế vì chúng không cải thiện tỷ lệ thụ thai cũng như tỷ lệ trẻ sinh sống.
Các can thiệp điều trị hiếm muộn được phân tích về mặt kinh tế bao gồm: thuốc/phác đồ kích thích buồng trứng, thụ tinh trong ống nghiệm, PGT-A, chuyển đơn phôi, ICSI, trữ phôi toàn bộ. Các nghiên cứu với các kỹ thuật HTSS khác ngoài chỉ định điều trị hiếm muộn như trữ noãn không được đưa vào bài tổng quan.
Đặc điểm đối tượng nghiên cứu bao gồm tiên lượng đáp ứng từ kém đến nhiều, với kết cục chính được báo cáo là tỷ lệ trẻ sinh sống. Các kết cục phụ gồm tỷ lệ thai diễn tiến và số năm sống có chất lượng (Quality-adjusted life year - QALY). Một nửa các nghiên cứu được thực hiện ở Châu Âu và phần lớn (85%) đánh giá hiệu quả về chi phí của các kỹ thuật HTSS dưới góc nhìn của nhà cung ứng.
Các kết quả thu được cho thấy:
- Thụ tinh trong ống nghiệm có hiệu quả cao, tuy nhiên chi phí cao hơn so với điều trị theo dõi và bơm tinh trùng vào buồng tử cung.
- ICSI trong trường hợp hiếm muộn không do yếu tố nam và PGT-A dường như không mang lại hiệu quả lâm sàng và do đó không mang lại lợi ích về chi phí.
- Chi phí dành cho số phôi chuyển tùy thuộc vào nhóm đối tượng nghiên cứu, kết cục được phân tích và khoảng thời gian đánh giá.
- Các loại thuốc kích thích buồng trứng khác nhau như các chất có hoạt tính sinh học tương tự hoặc hMG (human menopausal gonadotropin) có chi phí thấp hơn, tuy nhiên hiệu quả lâm sàng thấp.
Thêm vào đó, nhóm tác giả thừa nhận rằng số liệu về các kỹ thuật HTSS còn hạn chế do các nghiên cứu phân tích tính kinh tế khi thực hiện các can thiệp bổ trợ trong quá trình điều trị HTSS chưa từng được đề cập trước đây. Hơn nữa, không phải các nghiên cứu đều có mức độ bằng chứng mạnh. Vì thế các tác giả lưu ý độc giả nên cẩn thận khi xem qua bài tổng quan này. Bất kỳ nghiên cứu nào phân tích tính kinh tế và lợi ích của các kỹ thuật HTSS cần được dựa trên dữ liệu đáng tin cậy nhằm mục đích hạn chế sự thiên lệch.
Bên cạnh đó, không có nghiên cứu nào trong bài tổng quan đề cập đến sự lựa chọn kỹ thuật điều trị hiếm muộn của bệnh nhân. Nhóm tác giả cho rằng cần phải quan tâm đến khía cạnh này vì có một số loại thuốc cũng như kỹ thuật có thể làm tăng nguy cơ trong thai kỳ và gây ảnh hưởng đến kết cục của trẻ khi sinh ra.
Một trong những điểm hạn chế của nghiên cứu chính là việc dữ liệu chỉ được thu thập từ những quốc gia có thu nhập cao, vì thế cần lựa chọn chiến lược tiếp cận phù hợp đối với những quốc gia thu nhập từ thấp đến trung bình.
Tóm lại, các dữ liệu về chi phí dành cho lĩnh vực HTSS có giá trị vì các nghiên cứu ghi nhận tỷ lệ thụ thai có liên quan mật thiết năng suất lao động, nguyên nhân là do tỷ lệ người dân trong độ tuổi lao động đang trên đà sụt giảm trong khi chi phí chăm sóc dành cho người lớn tuổi ngày càng tăng. Vì vậy, bài tổng quan của nhóm tác giả trên rất có ý nghĩa trong thực hành lâm sàng, giúp các bác sĩ cân nhắc kỹ mỗi khi đưa ra thêm các chỉ định sử dụng những kỹ thuật bổ trợ trong HTSS vì có thể sẽ không mang lại lợi ích kinh tế cho người bệnh trong khi kết quả mong đợi không có sự khác biệt.
Tuy nhiên, bài toán làm sao để cải thiện hiệu quả kinh tế khi thực hiện các kỹ thuật HTSS vẫn chưa có lời giải đáp vì chưa có đủ dữ liệu chất lượng cao. Các nghiên cứu trong lĩnh vực HTSS trong tương lai nên thu thập dữ liệu về tuổi thai khi trẻ sinh ra và cân nặng của trẻ lúc sinh đối với từng can thiệp được sử dụng trong quá trình thụ tinh trong ống nghiệm. Từ đó, có thể giúp đánh giá sức khỏe của trẻ về sau và chi phí giáo dục những trẻ nhẹ cân so với tuổi thai khi sinh ra; cuối cùng làm cải thiện hiệu quả về kinh tế.
Lược dịch từ: Focus on Reproduction - ESHRE. 2024 [cited 2024 May 6]. High-cost ART is not cost-effective suggests systematic review. Available from: https://www.focusonreproduction.eu/science-and-reproduction/high-cost-art-is-not-cost-effective-suggests-systematic-review/
Các tin khác cùng chuyên mục:
Nghiên cứu ngẫu nhiên tiến cứu so sánh kết cục lâm sàng của các phương pháp điều trị IVF khi phôi được nuôi cấy đơn lẻ hoặc nuôi cấy nhóm trong giếng nuôi microwell - Ngày đăng: 06-06-2024
Mối liên hệ giữa việc sử dụng điện thoại và chất lượng tinh trùng ở giới trẻ - Ngày đăng: 06-06-2024
Tác động của Microfluidics đến tỷ lệ phôi nang nguyên bội so với ly tâm thang nồng độ: một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên mù đôi chia noãn - Ngày đăng: 04-06-2024
Sự biểu hiện gene trong quá trình hình thành nang noãn vã noãn - Ngày đăng: 04-06-2024
Môi trường chuyển phôi giàu Hyaluronan (HETM) có thể cải thiện tỷ lệ làm tổ khi chuyển phôi nang nguyên bội có hình thái kém - Ngày đăng: 03-06-2024
Tác động của thuốc cản quang gốc dầu trong chụp buồng tử cung vòi trứng đến kết quả sinh sản ở bệnh nhân lạc nội mạc tử cung: một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu. - Ngày đăng: 03-06-2024
Tỷ lệ sinh sống tích lũy cao hơn nhưng nguy cơ sẩy thai muộn cũng cao hơn ở phụ nữ không béo phì với hội chứng buồng trứng đa nang trải qua chu kỳ IVF/ICSI đầu tiên - Ngày đăng: 03-06-2024
Đánh giá tình trạng dinh dưỡng và ảnh hưởng của nó đến dự trữ buồng trứng: Một tổng quan hệ thống - Ngày đăng: 03-06-2024
Sự thoát màng tự nhiên của phôi nang có liên quan đến tiềm năng phát triển và tỷ lệ trẻ sinh sống cao trong chu kỳ chuyển đơn phôi nang đông lạnh bằng thủy tinh hóa: Một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu - Ngày đăng: 03-06-2024
Nhận thức về tác động của yếu tố lối sống và dân số lên khả năng sinh sản - Ngày đăng: 29-05-2024
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK