Tin tức
on Thursday 06-06-2024 8:51am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Phạm Ngọc Thu Phương – IVF Mỹ Đức, Tân Bình
Phôi được nuôi cấy nhóm hoặc đơn lẻ trong quá trình điều trị thụ tinh trong ống nghiệm (IVF). Trong nuôi cấy nhóm, nhiều phôi được nuôi cùng nhau trong cùng một giọt môi trường. Với nuôi cấy đơn lẻ, mỗi phôi được nuôi cấy trong từng giọt môi trường riêng biệt. Lý do chính cho việc nuôi cấy một phôi đơn lẻ là khả năng theo dõi sự phát triển của từng phôi. Đối với nuôi cấy nhóm, ưu điểm là khả năng tiết ra các chất khác nhau lên các phôi lân cận và lên chính phôi đó. Tác động cận tiết (tác động của phôi này lên phôi lân cận) và tác động tự tiết (tác động của phôi lên chính nó) có thể góp phần cải thiện kết quả trong nuôi cấy nhóm. Để thu được lợi ích từ tác động cận tiết của nuôi cấy nhóm, các phôi cần phải ở trong một khoảng cách nhất định với nhau.
Mục đích của nghiên cứu này là so sánh ảnh hưởng của hai mô hình nuôi cấy lên phôi người (nuôi cấy đơn lẻ trong đĩa nuôi cấy thông thường với nuôi cấy nhóm trong giếng nuôi microwell).
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu gồm hai nhóm: nuôi cấy nhóm trong microwell (giếng Primo Vision Dish 3 × 3; Vitrolife, Thụy Điển) hoặc nuôi cấy đơn lẻ (60 mm Falcon; Erembodegem, Bỉ). Kết cục chính là tỷ lệ thai lâm sàng và kết cục phụ là tỷ lệ thụ tinh, chất lượng phôi, tỷ lệ làm tổ, tỷ lệ trẻ sinh sống và tỷ lệ sử dụng phôi.
532 bệnh nhân có ≥ 1 noãn (264 chu kỳ nuôi cấy nhóm và 268 chu kỳ nuôi cấy đơn lẻ). Kích thích buồng trứng có thể được thực hiện theo phác đồ GnRH dài hạn hoặc phác đồ đối kháng GnRH. Chọc hút thông qua siêu âm ngã âm đạo được thực hiện 36 tiếng sau khi tiêm hCG. Thụ tinh có thể được thực hiện bằng IVF cổ điển hoặc tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI) dựa trên chất lượng tinh dịch, tiền sử bệnh và đặc điểm chu kỳ.
Có tới 12 phôi được nuôi cấy riêng lẻ trong đĩa nuôi cấy thông thường và ≤ 9 phôi được nuôi cấy nhóm trong các giếng nuôi microwell với thể tích môi trường là 25 μl.
Hình thái phôi được đánh giá ở 2 và 3 ngày sau thụ tinh theo quy trình chuẩn Alpha và ESHRE SIG Embryology 2011. Phôi bào đa nhân được cũng được ghi nhận. Tỷ lệ thụ tinh trong IVF/ ICSI là số hợp tử thụ tinh trên tổng số noãn bào. Tỷ lệ phôi sử dụng là số lượng phôi được chuyển hoặc bảo quản lạnh trên số lượng noãn thụ tinh bình thường. Nồng độ β-hCG huyết thanh được đo 11–13 ngày sau chuyển phôi (ET). Thai lâm sàng được xác nhận bằng sự hiện diện của túi thai với hoạt động của tim thai 4 tuần sau ET.
Kết quả
Chất lượng tinh dịch, tỷ lệ chu kỳ IVF/ICSI, số lượng noãn MII (Metaphase II) trong chu kỳ ICSI tương tự giữa hai nhóm. Tỷ lệ thụ tinh tương đương giữa hai nhóm khi thực hiện IVF cổ điển; tuy nhiên, tỷ lệ thụ tinh khi ICSI ở nhóm nuôi cấy nhóm cao hơn đáng kể so với nhóm nuôi cấy đơn lẻ (70,6% so với 64,9%, P = 0,001).
Hình thái phôi và số lượng phôi chất lượng tốt tương tự nhau giữa hai nhóm; tuy nhiên, số lượng phôi bào trong nhóm nuôi cấy nhóm cao hơn đáng kể so với nhóm nuôi cấy đơn lẻ. Ngoài ra, số lượng phôi chứa phôi bào đa nhân trong nuôi cấy nhóm thấp hơn một chút so với nuôi cấy đơn lẻ.
Các kết quả liên quan đến tỷ lệ thai cho thấy:
- Tỷ lệ thai lâm sàng trong nhóm nuôi cấy nhóm cao hơn đáng kể so với nhóm nuôi cấy đơn (50,8% so với 40,6%, P=0,022).
- Tỷ lệ làm tổ không khác biệt đáng kể giữa các nhóm (30,6% so với 27,2%, P = 0,214).
- Tỷ lệ sẩy thai tương tự nhau ở hai nhóm (18,4% so với 18,8%, P = 0,937).
- Tỷ lệ trẻ sinh sống giữa hai nhóm có khác biệt có ý nghĩa thống kê (41,5% ở nhóm nuôi cấy nhóm so với 32,9% ở nhóm nuôi cấy đơn lẻ, P = 0,0496).
- Thời gian mang thai, cân nặng trẻ sơ sinh và tỷ lệ nam/nữ không khác biệt đáng kể giữa các nhóm.
Phôi đạt tiêu chuẩn để bảo quản lạnh chiếm 44,3% chu kỳ trong nhóm nuôi cấy nhóm và 32,9% chu kỳ trong nhóm nuôi cấy đơn lẻ, khác biệt có ý nghĩa thống kê (P = 0,009). Do đó, tỷ lệ bảo quản lạnh phôi và tỷ lệ sử dụng phôi trong nuôi cấy nhóm cao hơn đáng kể so với nuôi cấy đơn lẻ.
Đánh giá hình thái phôi cần ít thời gian hơn khi sử dụng microwell so với đĩa Petri thông thường (19,2 ± 8,2 giây/phôi so với 23,8 ± 8,2 giây/phôi, P < 0,0001). Sự khác biệt trung bình giữa hai nhóm là 31 giây cho mỗi chu kỳ IVF.
Bàn luận
Nghiên cứu chỉ ra rằng nuôi cấy nhóm trong giếng nuôi microwell mang lại nhiều lợi ích liên quan đến việc tăng tỷ lệ sử dụng phôi cũng như tăng tỷ lệ thai lâm sàng và tỷ lệ trẻ sinh sống. Sự giao tiếp giữa các phôi được điều chỉnh bởi một loạt các chất truyền tín hiệu sinh hóa, bao gồm các yếu tố tăng trưởng, protein, lipid, chất dẫn truyền thần kinh, saccharide và microRNA, tất cả đều có thể được trao đổi giữa các phôi khi nuôi cấy cùng nhau theo nhóm. Các phân tử truyền tín hiệu khác nhau ảnh hưởng đến sự phát triển của phôi bằng các con đường kích hoạt khác nhau. Các embryotropin, chẳng hạn như IGF-I hoặc yếu tố kích hoạt tiểu cầu (PAF), hoặc các yếu tố tự tiết lipophilic như prostaglandin hoặc axit béo, kích hoạt các con đường khác nhau quan trọng cho sự sống, sự phát triển và khả năng thoát khỏi chu trình chết tế bào (apoptosis) của phôi.
Theo các nghiên cứu trước đây, khoảng cách từ phôi đến phôi là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc trao đổi chéo giữa phôi trong nuôi cấy nhóm. Người ta đã chứng minh rằng khoảng cách giữa các phôi được nuôi cấy với nhau phải < 250 μm và các phôi nằm ngoài khoảng cách này có thể không thu được lợi ích từ mô hình nuôi cấy nhóm thông qua hoạt động tự tiết và cận tiết. Một yếu tố quan trọng khác trong mô hình nuôi cấy nhóm là mật độ phôi, được định nghĩa là tỷ lệ giữa phôi và thể tích. Nói chung, 3–15 μl môi trường được sử dụng cho mỗi phôi trong nuôi cấy nhóm phôi người; tuy nhiên, tác động có lợi đã được báo cáo khi sử dụng mật độ phôi cực thấp (< 0,5 μl/phôi) hoặc cao (40 μl/phôi) trong các nghiên cứu trên động vật. Trong nghiên cứu này, phôi được nuôi cấy trong 25 μl môi trường nuôi cấy cả trong mô hình nuôi cấy đơn và nhóm, dẫn đến mật độ từ 2,8 μl đến 25 μl mỗi phôi. Mật độ này có thể đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng và đệm trong quá trình phát triển sớm của phôi.
Ưu điểm chính của nuôi cấy nhóm trong microwell trong nghiên cứu này chính là số lượng phôi được bảo quản lạnh cao hơn. Hình thái phôi không khác nhau giữa hai nhóm, nhưng số lượng tế bào cao hơn và tỷ lệ phôi đa nhân thấp hơn có thể ảnh hưởng đến tính phù hợp của phôi đối với việc bảo quản lạnh. Việc đánh giá hình thái phôi trong hệ thống nuôi cấy đơn tốn nhiều thời gian vì khoảng cách giữa các vi giọt lớn khi quan sát dưới kính hiển vi. Trong giếng nuôi microwell, tất cả phôi được quan sát dưới cùng vi trường thông qua kính hiển vi. Điều này có thể giảm thời gian cần thiết để đánh giá phôi trung bình khoảng 30 giây cho mỗi bệnh nhân. Thời gian đánh giá nhanh hơn giảm sự giao động nhiệt độ và pH trong quá trình đánh giá hình thái.
Kết luận
Nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc sử dụng giếng nuôi microwell mang lại lợi ích cho sự phát triển và khả năng sống sót của phôi trong điều trị IVF so với nuôi cấy vi giọt đơn lẻ. Hệ thống nuôi cấy nhóm bằng microwell cho tỷ lệ thai lâm sàng và tỷ lệ trẻ sinh sống cao hơn. Ngoài ra, nuôi cấy nhóm cho tỷ lệ thụ tinh cao hơn trong chu kỳ ICSI, tỷ lệ sử dụng phôi cao hơn và cũng giảm thời gian để đánh giá phôi so với nuôi cấy phôi đơn lẻ.
Từ khóa: Nuôi cấy giếng microwell, nuôi cấy đơn lẻ, sự phát triển phôi, kết quả IVF.
TLTK: Fancsovits, P., Pribenszky, C., Lehner, A., Murber, A., Kaszas, Z., Nemes, A., & Urbancsek, J. (2022). Prospective-randomized study comparing clinical outcomes of IVF treatments where embryos were cultured individually or in a microwell group culture dish. Biologia Futura, 73(2), 229–236. https://doi.org/10.1007/s42977-022-00113-8
Đánh giá hình thái phôi cần ít thời gian hơn khi sử dụng microwell so với đĩa Petri thông thường (19,2 ± 8,2 giây/phôi so với 23,8 ± 8,2 giây/phôi, P < 0,0001). Sự khác biệt trung bình giữa hai nhóm là 31 giây cho mỗi chu kỳ IVF.
Bàn luận
Nghiên cứu chỉ ra rằng nuôi cấy nhóm trong giếng nuôi microwell mang lại nhiều lợi ích liên quan đến việc tăng tỷ lệ sử dụng phôi cũng như tăng tỷ lệ thai lâm sàng và tỷ lệ trẻ sinh sống. Sự giao tiếp giữa các phôi được điều chỉnh bởi một loạt các chất truyền tín hiệu sinh hóa, bao gồm các yếu tố tăng trưởng, protein, lipid, chất dẫn truyền thần kinh, saccharide và microRNA, tất cả đều có thể được trao đổi giữa các phôi khi nuôi cấy cùng nhau theo nhóm. Các phân tử truyền tín hiệu khác nhau ảnh hưởng đến sự phát triển của phôi bằng các con đường kích hoạt khác nhau. Các embryotropin, chẳng hạn như IGF-I hoặc yếu tố kích hoạt tiểu cầu (PAF), hoặc các yếu tố tự tiết lipophilic như prostaglandin hoặc axit béo, kích hoạt các con đường khác nhau quan trọng cho sự sống, sự phát triển và khả năng thoát khỏi chu trình chết tế bào (apoptosis) của phôi.
Theo các nghiên cứu trước đây, khoảng cách từ phôi đến phôi là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc trao đổi chéo giữa phôi trong nuôi cấy nhóm. Người ta đã chứng minh rằng khoảng cách giữa các phôi được nuôi cấy với nhau phải < 250 μm và các phôi nằm ngoài khoảng cách này có thể không thu được lợi ích từ mô hình nuôi cấy nhóm thông qua hoạt động tự tiết và cận tiết. Một yếu tố quan trọng khác trong mô hình nuôi cấy nhóm là mật độ phôi, được định nghĩa là tỷ lệ giữa phôi và thể tích. Nói chung, 3–15 μl môi trường được sử dụng cho mỗi phôi trong nuôi cấy nhóm phôi người; tuy nhiên, tác động có lợi đã được báo cáo khi sử dụng mật độ phôi cực thấp (< 0,5 μl/phôi) hoặc cao (40 μl/phôi) trong các nghiên cứu trên động vật. Trong nghiên cứu này, phôi được nuôi cấy trong 25 μl môi trường nuôi cấy cả trong mô hình nuôi cấy đơn và nhóm, dẫn đến mật độ từ 2,8 μl đến 25 μl mỗi phôi. Mật độ này có thể đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng và đệm trong quá trình phát triển sớm của phôi.
Ưu điểm chính của nuôi cấy nhóm trong microwell trong nghiên cứu này chính là số lượng phôi được bảo quản lạnh cao hơn. Hình thái phôi không khác nhau giữa hai nhóm, nhưng số lượng tế bào cao hơn và tỷ lệ phôi đa nhân thấp hơn có thể ảnh hưởng đến tính phù hợp của phôi đối với việc bảo quản lạnh. Việc đánh giá hình thái phôi trong hệ thống nuôi cấy đơn tốn nhiều thời gian vì khoảng cách giữa các vi giọt lớn khi quan sát dưới kính hiển vi. Trong giếng nuôi microwell, tất cả phôi được quan sát dưới cùng vi trường thông qua kính hiển vi. Điều này có thể giảm thời gian cần thiết để đánh giá phôi trung bình khoảng 30 giây cho mỗi bệnh nhân. Thời gian đánh giá nhanh hơn giảm sự giao động nhiệt độ và pH trong quá trình đánh giá hình thái.
Kết luận
Nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc sử dụng giếng nuôi microwell mang lại lợi ích cho sự phát triển và khả năng sống sót của phôi trong điều trị IVF so với nuôi cấy vi giọt đơn lẻ. Hệ thống nuôi cấy nhóm bằng microwell cho tỷ lệ thai lâm sàng và tỷ lệ trẻ sinh sống cao hơn. Ngoài ra, nuôi cấy nhóm cho tỷ lệ thụ tinh cao hơn trong chu kỳ ICSI, tỷ lệ sử dụng phôi cao hơn và cũng giảm thời gian để đánh giá phôi so với nuôi cấy phôi đơn lẻ.
Từ khóa: Nuôi cấy giếng microwell, nuôi cấy đơn lẻ, sự phát triển phôi, kết quả IVF.
TLTK: Fancsovits, P., Pribenszky, C., Lehner, A., Murber, A., Kaszas, Z., Nemes, A., & Urbancsek, J. (2022). Prospective-randomized study comparing clinical outcomes of IVF treatments where embryos were cultured individually or in a microwell group culture dish. Biologia Futura, 73(2), 229–236. https://doi.org/10.1007/s42977-022-00113-8
Các tin khác cùng chuyên mục:
Mối liên hệ giữa việc sử dụng điện thoại và chất lượng tinh trùng ở giới trẻ - Ngày đăng: 06-06-2024
Tác động của Microfluidics đến tỷ lệ phôi nang nguyên bội so với ly tâm thang nồng độ: một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên mù đôi chia noãn - Ngày đăng: 04-06-2024
Sự biểu hiện gene trong quá trình hình thành nang noãn vã noãn - Ngày đăng: 04-06-2024
Môi trường chuyển phôi giàu Hyaluronan (HETM) có thể cải thiện tỷ lệ làm tổ khi chuyển phôi nang nguyên bội có hình thái kém - Ngày đăng: 03-06-2024
Tác động của thuốc cản quang gốc dầu trong chụp buồng tử cung vòi trứng đến kết quả sinh sản ở bệnh nhân lạc nội mạc tử cung: một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu. - Ngày đăng: 03-06-2024
Tỷ lệ sinh sống tích lũy cao hơn nhưng nguy cơ sẩy thai muộn cũng cao hơn ở phụ nữ không béo phì với hội chứng buồng trứng đa nang trải qua chu kỳ IVF/ICSI đầu tiên - Ngày đăng: 03-06-2024
Đánh giá tình trạng dinh dưỡng và ảnh hưởng của nó đến dự trữ buồng trứng: Một tổng quan hệ thống - Ngày đăng: 03-06-2024
Sự thoát màng tự nhiên của phôi nang có liên quan đến tiềm năng phát triển và tỷ lệ trẻ sinh sống cao trong chu kỳ chuyển đơn phôi nang đông lạnh bằng thủy tinh hóa: Một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu - Ngày đăng: 03-06-2024
Nhận thức về tác động của yếu tố lối sống và dân số lên khả năng sinh sản - Ngày đăng: 29-05-2024
Cập nhật tổng quan về sự giảm thông số tinh trùng ở thế kỷ 21st: béo phì, lối sống, hay yếu tố môi trường? - Ngày đăng: 27-05-2024
Hiệu quả của việc giảm cân trước khi thụ tinh trong ống nghiệm ở phụ nữ béo phì hoặc thừa cân và vô sinh: tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp - Ngày đăng: 27-05-2024
Béo phì có cân nặng bình thường có liên quan đến AFC thấp hơn và kết quả IVF bất lợi - Ngày đăng: 27-05-2024
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK