Tin tức
on Thursday 06-06-2024 8:48am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Phạm Ngọc Thu Phương – IVF Mỹ Đức, Tân Bình
Vô sinh được định nghĩa là không có hiện tượng thụ thai sau một năm quan hệ tình dục đều đặn mà không sử dụng biện pháp tránh thai. Khoảng một nửa nguyên nhân lâm sàng của vô sinh đến từ nam giới, nhưng nguyên nhân gây ra chất lượng tinh trùng kém vẫn chưa được hiểu rõ. Nhiều yếu tố về môi trường và lối sống có ảnh hưởng đến chất lượng tinh trùng bao gồm béo phì, hút thuốc, sử dụng đồ uống có cồn và căng thẳng tâm lý. Việc sử dụng điện thoại di động đã tăng đáng kể trong những thập kỷ gần đây, và mối lo ngại về ảnh hưởng tiêu cực của trường điện từ tần số vô tuyến (radiofrequency electromagnetic fields - RF-EMFs) từ thiết bị này phát ra lên chức năng sinh sản ngày càng được quan tâm. Điện thoại di động phát ra RF-EMF ở mức thấp (800–2200 MHz) có thể được hấp thụ vào cơ thể người. Các nghiên cứu thử nghiệm trên chuột cho thấy rằng RF-EMF có thể ảnh hưởng đến chu kỳ tế bào mầm, tăng số lượng tinh trùng chết và gây ra các thay đổi về mặt mô học trong tinh hoàn cũng như ống sinh tinh. Các nghiên cứu thử nghiệm trên tinh trùng người giữa các mẫu tinh trùng tiếp xúc với RF-EMF và các mẫu không tiếp xúc cho thấy mẫu tiếp xúc RF-EMF gia tăng đáng kể sự phân mảnh DNA và hạn chế khả năng di động của tinh trùng.
Mặc dù điện thoại được sử dụng phổ biến và an toàn, số lượng nghiên cứu về tác động việc sử dụng điện thoại đối với sức khỏe sinh sản và chất lượng tinh trùng vẫn còn hạn chế. Trong nghiên cứu này, các tác giả đã phân tích dữ liệu thu thập từ 2886 nam thanh niên Thụy Sĩ mà không có thông tin về tình trạng sinh sản của họ. Người tham gia cung cấp chi tiết về thói quen sử dụng điện thoại di động của họ vào thời điểm họ trả lời câu hỏi. Mục tiêu nghiên cứu là đánh giá mối quan hệ giữa tần suất sử dụng điện thoại và các tham số về tinh dịch.
Thiết kế nghiên cứu
Những cá nhân tham gia trải qua một cuộc kiểm tra thể chất bao gồm cấu trúc quanh khu vực sinh dục (sự hiện diện của vết sẹo phẫu thuật, lỗ tiểu lệch thấp và giãn tĩnh mạch thừng tinh và đo thể tích tinh hoàn). Ngoài ra, cân nặng, chiều cao và chỉ số khối cơ thể (BMI) cũng được ghi nhận. Nam giới được yêu cầu cung cấp mẫu tinh dịch thu được bằng cách tự thủ dâm. Các mẫu tinh dịch được phân tích theo hướng dẫn của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO).
Các cá nhân nam giới điền thông tin cá nhân trong một bảng câu hỏi liên quan đến sức khỏe tổng quát và sinh sản, thói quen sống và học vấn. Trong phần thói quen sống, nam giới được hỏi liệu họ có sử dụng điện thoại di động không, sử dụng thường xuyên như thế nào và nơi họ để điện thoại khi không sử dụng. Đối với câu hỏi về tần suất sử dụng, nam giới có thể chọn một trong các câu trả lời sau: hiếm khi, vài lần mỗi tuần (gộp thành nhóm20 lần mỗi ngày. Các câu trả lời cho vị trí điện thoại di động khi không sử dụng bao gồm túi quần, túi áo khoác, trong hộp đựng đeo thắt lưng hoặc nơi khác.
Kết quả
· Mối liên hệ giữa tần suất sử dụng điện thoại và chất lượng tinh trùng
Dựa trên nghiên cứu, mật độ tinh trùng trung bình và tổng số tinh trùng (total sperm count – TSC) của nam giới trong nhóm không sử dụng điện thoại di động hơn một lần mỗi tuần (tương ứng 56,5 triệu/mL và 153,7 triệu) cao hơn đáng kể so với nam giới sử dụng điện thoại >20 lần mỗi ngày (tương ứng 44,5 triệu/mL và 120 triệu). Sự khác biệt này tương ứng với giảm 21% trong mật độ tinh trùng và giảm 22% trong TSC cho người dùng điện thoại thường xuyên (>20 lần/ngày) so với người dùng hiếm khi ( Mật độ tinh trùng dưới ngưỡng giá trị tham chiếu của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) là 15 triệu/mL cao hơn đáng kể đối với nam giới sử dụng điện thoại 5–10 lần/ ngày so với nam giới sử dụng điện thoại 1–5 lần/ ngày hoặc ít hơn một lần mỗi tuần. Trong phân tích hồi quy logistic, nam giới sử dụng điện thoại >20 lần/ ngày có nguy cơ tăng 30% và 21% để có mật độ tinh trùng và TSC dưới ngưỡng giá trị tham chiếu của WHO cho nam giới có khả năng sinh sản bình thường. Tuy nhiên, tần suất sử dụng điện thoại không liên quan đến khả năng di động và hình thái tinh trùng.
· Mối liên hệ giữa vị trí để điện thoại và chất lượng tinh trùng
Tổng cộng có 2368 nam giới (chiếm 85,7% trong tổng số nam giới nghiên cứu) để điện thoại trong túi quần khi không sử dụng. Các nam giới còn lại đặt điện thoại trong áo khoác (4,6%) hoặc nơi khác không trên cơ thể (9,7%). Đặt điện thoại trong túi quần không liên quan đến các thông số chất lượng tinh trùng so với việc đặt điện thoại xa cơ thể khi phân tích hồi quy tuyến tính và hồi quy logistic.
Bàn luận
Trong nghiên cứu này trên một mẫu lớn nam giới, nghiên cứu cho thấy tần suất sử dụng điện thoại gây giảm mật độ tinh trùng và tổng số tinh trùng. Tuy nhiên, thể tích tinh dịch, khả năng di động của tinh trùng và hình thái tinh trùng không liên quan đến tần suất sử dụng. Vị trí của điện thoại di động khi không sử dụng cũng không liên quan đến bất kỳ thông số tinh dịch nào. Một thách thức lớn trong việc nghiên cứu việc sử dụng điện thoại di động là đánh giá tiếp xúc RF-EMF được hấp thu từ điện thoại của chủ sở hữu trong cuộc sống hàng ngày. Nghiên cứu giống với các nghiên cứu trước đó khi chỉ dựa vào dữ liệu tự báo cáo (hạn chế của nghiên cứu). Bằng cách như vậy, tần suất sử dụng được báo cáo bởi cá nhân được ước tính chính xác. Mục đích sử dụng điện thoại (gọi điện, nhắn tin và sử dụng ứng dụng) không được báo cáo và do đó không thể xem xét, và số lần sử dụng hàng ngày được xem xét là một thay thế hợp lệ cho năng lượng RF-EMF hấp thụ từ các thiết bị điện thoại di động. Năng lượng hấp thụ bởi cơ thể chủ yếu phụ thuộc vào thời gian truyền, sức mạnh của nguồn điện thoại và khoảng cách đến nguồn đó. Tỷ lệ hấp thụ giảm theo bình phương của khoảng cách đến nguồn.
RF-EMF có thể tác động gián tiếp đến chất lượng tinh trùng bằng cách thay đổi trục hạ đồi – tuyến yên - tuyến sinh dục và thay đổi các hormone như LH, FSH và Testosterone. Một số cơ chế hoạt động đã được đề xuất trước đây để giải thích các tác động tiêu cực của RF-EMF đối với các tham số tinh dịch, nhưng không có cơ chế nào được xác minh chặt chẽ cho đến nay. Các cơ chế này bao gồm vai trò của các kinase trong quá trình trao đổi chất tế bào, hỏng mạch DNA, stress oxy hóa, tác động nhiệt và thay đổi trong hoạt động của các hạt từ tính ảnh hưởng đến quá trình sinh tinh. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu này đã được tiến hành trên chuột hoặc tinh dịch người in-vitro, điều này đặt ra câu hỏi về tác động tiêu cực của việc sử dụng điện thoại lên khả năng sinh sản và cơ chế hoạt động.
Kết luận
Mối liên hệ tiêu cực giữa việc sử dụng điện thoại và khả năng sinh sản ở nam giới vẫn còn thiếu nhiều chứng cứ rõ ràng, cùng với hoạt động sử dụng điện thoại ngày càng phổ biến đã nhấn mạnh sự cần thiết của việc nghiên cứu. Từ góc độ này, việc tiến hành các nghiên cứu quan sát tiềm năng với nam giới từ dân số tổng quát và đo lường chính xác việc tiếp xúc RF-EMF đối với tinh hoàn và trục hạ đồi - tuyến yên - tuyến sinh dục là quan trọng để tìm ra mối liên hệ giữa việc sử dụng điện thoại di động, tiếp xúc RF-EMF và chất lượng tinh trùng, và hiểu rõ hơn về cơ chế hoạt động của RF-EMF đối với hệ thống sinh sản nam giới.
Từ khóa: Bức xạ điện từ, sử dụng điện thoại, vị trí đặt điện thoại, chất lượng tinh trùng, mật độ tinh trùng, tổng số tinh trùng.
TLTK: Rahban, R., Senn, A., Nef, S., & Rӧӧsli, M. (2023). Association between self-reported mobile phone use and the semen quality of young men. Fertility and Sterility, 120(6), 1181–1192. https://doi.org/10.1016/j.fertnstert.2023.09.009
Mặc dù điện thoại được sử dụng phổ biến và an toàn, số lượng nghiên cứu về tác động việc sử dụng điện thoại đối với sức khỏe sinh sản và chất lượng tinh trùng vẫn còn hạn chế. Trong nghiên cứu này, các tác giả đã phân tích dữ liệu thu thập từ 2886 nam thanh niên Thụy Sĩ mà không có thông tin về tình trạng sinh sản của họ. Người tham gia cung cấp chi tiết về thói quen sử dụng điện thoại di động của họ vào thời điểm họ trả lời câu hỏi. Mục tiêu nghiên cứu là đánh giá mối quan hệ giữa tần suất sử dụng điện thoại và các tham số về tinh dịch.
Thiết kế nghiên cứu
Những cá nhân tham gia trải qua một cuộc kiểm tra thể chất bao gồm cấu trúc quanh khu vực sinh dục (sự hiện diện của vết sẹo phẫu thuật, lỗ tiểu lệch thấp và giãn tĩnh mạch thừng tinh và đo thể tích tinh hoàn). Ngoài ra, cân nặng, chiều cao và chỉ số khối cơ thể (BMI) cũng được ghi nhận. Nam giới được yêu cầu cung cấp mẫu tinh dịch thu được bằng cách tự thủ dâm. Các mẫu tinh dịch được phân tích theo hướng dẫn của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO).
Các cá nhân nam giới điền thông tin cá nhân trong một bảng câu hỏi liên quan đến sức khỏe tổng quát và sinh sản, thói quen sống và học vấn. Trong phần thói quen sống, nam giới được hỏi liệu họ có sử dụng điện thoại di động không, sử dụng thường xuyên như thế nào và nơi họ để điện thoại khi không sử dụng. Đối với câu hỏi về tần suất sử dụng, nam giới có thể chọn một trong các câu trả lời sau: hiếm khi, vài lần mỗi tuần (gộp thành nhóm
Kết quả
· Mối liên hệ giữa tần suất sử dụng điện thoại và chất lượng tinh trùng
Dựa trên nghiên cứu, mật độ tinh trùng trung bình và tổng số tinh trùng (total sperm count – TSC) của nam giới trong nhóm không sử dụng điện thoại di động hơn một lần mỗi tuần (tương ứng 56,5 triệu/mL và 153,7 triệu) cao hơn đáng kể so với nam giới sử dụng điện thoại >20 lần mỗi ngày (tương ứng 44,5 triệu/mL và 120 triệu). Sự khác biệt này tương ứng với giảm 21% trong mật độ tinh trùng và giảm 22% trong TSC cho người dùng điện thoại thường xuyên (>20 lần/ngày) so với người dùng hiếm khi (
· Mối liên hệ giữa vị trí để điện thoại và chất lượng tinh trùng
Tổng cộng có 2368 nam giới (chiếm 85,7% trong tổng số nam giới nghiên cứu) để điện thoại trong túi quần khi không sử dụng. Các nam giới còn lại đặt điện thoại trong áo khoác (4,6%) hoặc nơi khác không trên cơ thể (9,7%). Đặt điện thoại trong túi quần không liên quan đến các thông số chất lượng tinh trùng so với việc đặt điện thoại xa cơ thể khi phân tích hồi quy tuyến tính và hồi quy logistic.
Bàn luận
Trong nghiên cứu này trên một mẫu lớn nam giới, nghiên cứu cho thấy tần suất sử dụng điện thoại gây giảm mật độ tinh trùng và tổng số tinh trùng. Tuy nhiên, thể tích tinh dịch, khả năng di động của tinh trùng và hình thái tinh trùng không liên quan đến tần suất sử dụng. Vị trí của điện thoại di động khi không sử dụng cũng không liên quan đến bất kỳ thông số tinh dịch nào. Một thách thức lớn trong việc nghiên cứu việc sử dụng điện thoại di động là đánh giá tiếp xúc RF-EMF được hấp thu từ điện thoại của chủ sở hữu trong cuộc sống hàng ngày. Nghiên cứu giống với các nghiên cứu trước đó khi chỉ dựa vào dữ liệu tự báo cáo (hạn chế của nghiên cứu). Bằng cách như vậy, tần suất sử dụng được báo cáo bởi cá nhân được ước tính chính xác. Mục đích sử dụng điện thoại (gọi điện, nhắn tin và sử dụng ứng dụng) không được báo cáo và do đó không thể xem xét, và số lần sử dụng hàng ngày được xem xét là một thay thế hợp lệ cho năng lượng RF-EMF hấp thụ từ các thiết bị điện thoại di động. Năng lượng hấp thụ bởi cơ thể chủ yếu phụ thuộc vào thời gian truyền, sức mạnh của nguồn điện thoại và khoảng cách đến nguồn đó. Tỷ lệ hấp thụ giảm theo bình phương của khoảng cách đến nguồn.
RF-EMF có thể tác động gián tiếp đến chất lượng tinh trùng bằng cách thay đổi trục hạ đồi – tuyến yên - tuyến sinh dục và thay đổi các hormone như LH, FSH và Testosterone. Một số cơ chế hoạt động đã được đề xuất trước đây để giải thích các tác động tiêu cực của RF-EMF đối với các tham số tinh dịch, nhưng không có cơ chế nào được xác minh chặt chẽ cho đến nay. Các cơ chế này bao gồm vai trò của các kinase trong quá trình trao đổi chất tế bào, hỏng mạch DNA, stress oxy hóa, tác động nhiệt và thay đổi trong hoạt động của các hạt từ tính ảnh hưởng đến quá trình sinh tinh. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu này đã được tiến hành trên chuột hoặc tinh dịch người in-vitro, điều này đặt ra câu hỏi về tác động tiêu cực của việc sử dụng điện thoại lên khả năng sinh sản và cơ chế hoạt động.
Kết luận
Mối liên hệ tiêu cực giữa việc sử dụng điện thoại và khả năng sinh sản ở nam giới vẫn còn thiếu nhiều chứng cứ rõ ràng, cùng với hoạt động sử dụng điện thoại ngày càng phổ biến đã nhấn mạnh sự cần thiết của việc nghiên cứu. Từ góc độ này, việc tiến hành các nghiên cứu quan sát tiềm năng với nam giới từ dân số tổng quát và đo lường chính xác việc tiếp xúc RF-EMF đối với tinh hoàn và trục hạ đồi - tuyến yên - tuyến sinh dục là quan trọng để tìm ra mối liên hệ giữa việc sử dụng điện thoại di động, tiếp xúc RF-EMF và chất lượng tinh trùng, và hiểu rõ hơn về cơ chế hoạt động của RF-EMF đối với hệ thống sinh sản nam giới.
Từ khóa: Bức xạ điện từ, sử dụng điện thoại, vị trí đặt điện thoại, chất lượng tinh trùng, mật độ tinh trùng, tổng số tinh trùng.
TLTK: Rahban, R., Senn, A., Nef, S., & Rӧӧsli, M. (2023). Association between self-reported mobile phone use and the semen quality of young men. Fertility and Sterility, 120(6), 1181–1192. https://doi.org/10.1016/j.fertnstert.2023.09.009
Các tin khác cùng chuyên mục:
Tác động của Microfluidics đến tỷ lệ phôi nang nguyên bội so với ly tâm thang nồng độ: một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên mù đôi chia noãn - Ngày đăng: 04-06-2024
Sự biểu hiện gene trong quá trình hình thành nang noãn vã noãn - Ngày đăng: 04-06-2024
Môi trường chuyển phôi giàu Hyaluronan (HETM) có thể cải thiện tỷ lệ làm tổ khi chuyển phôi nang nguyên bội có hình thái kém - Ngày đăng: 03-06-2024
Tác động của thuốc cản quang gốc dầu trong chụp buồng tử cung vòi trứng đến kết quả sinh sản ở bệnh nhân lạc nội mạc tử cung: một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu. - Ngày đăng: 03-06-2024
Tỷ lệ sinh sống tích lũy cao hơn nhưng nguy cơ sẩy thai muộn cũng cao hơn ở phụ nữ không béo phì với hội chứng buồng trứng đa nang trải qua chu kỳ IVF/ICSI đầu tiên - Ngày đăng: 03-06-2024
Đánh giá tình trạng dinh dưỡng và ảnh hưởng của nó đến dự trữ buồng trứng: Một tổng quan hệ thống - Ngày đăng: 03-06-2024
Sự thoát màng tự nhiên của phôi nang có liên quan đến tiềm năng phát triển và tỷ lệ trẻ sinh sống cao trong chu kỳ chuyển đơn phôi nang đông lạnh bằng thủy tinh hóa: Một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu - Ngày đăng: 03-06-2024
Nhận thức về tác động của yếu tố lối sống và dân số lên khả năng sinh sản - Ngày đăng: 29-05-2024
Cập nhật tổng quan về sự giảm thông số tinh trùng ở thế kỷ 21st: béo phì, lối sống, hay yếu tố môi trường? - Ngày đăng: 27-05-2024
Hiệu quả của việc giảm cân trước khi thụ tinh trong ống nghiệm ở phụ nữ béo phì hoặc thừa cân và vô sinh: tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp - Ngày đăng: 27-05-2024
Béo phì có cân nặng bình thường có liên quan đến AFC thấp hơn và kết quả IVF bất lợi - Ngày đăng: 27-05-2024
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Quinter Central Nha Trang, chiều thứ bảy 11.1.2025 (13:00 - 17:00)
Năm 2020
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK