Tin tức
on Saturday 27-04-2024 7:35am
Danh mục: Tin quốc tế
CNXN. Nguyễn Thị Thanh Huệ - Bệnh viện Đại học Y Dược Buôn Ma Thuột
Sự lệch bội nhiễm sắc thể ở phôi là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của công nghệ hỗ trợ sinh sản (Assisted Reproductive Technology – ART) và tăng tỷ lệ sảy thai, đặc biệt ở phụ nữ lớn tuổi. Gần đây, xét nghiệm di truyền tiền làm tổ chẩn đoán phôi lệch bội (Preimplantation Genetic Testing for Aneuploidy – PGT-A) được áp dụng phổ biến trong thực hành lâm sàng và mang lại thành công cho ART. Tuy nhiên, PGT-A có những hạn chế và rủi ro nhất định. Một phân tích tổng hợp gần đây của Kasaven và cộng sự vào năm 2023 cho thấy PGT-A làm tăng tỷ lệ trẻ sinh sống và mang thai diễn tiến. Tuy nhiên, trong báo cáo của Simopoulou và cộng sự năm 2021 cho rằng, PGT-A không cải thiện tỷ lệ trẻ sinh sống chung và chỉ cải thiện ở phụ nữ trên 35 tuổi. Động học hình thái phôi mô tả các quá trình phân chia diễn ra trong suốt quá trình phôi phát triển. Trong quá trình hình thành phôi nang, sự phân chia tế bào liên quan đến quá trình gắn các kinetochore vào các vi ống, quá trình này đòi hỏi các phân tử gắn kết để tách chính xác nhiễm sắc thể và các protein đặc hiệu để biểu hiện gen chính xác. Tuy nhiên, lỗi trong cơ chế phát hiện và tự sửa chữa DNA có thể làm phát sinh phôi lệch bội. Do vậy, những khác biệt trong đánh giá động học hình thái phôi so với quá trình phát triển phôi bình thường có thể dự đoán tình trạng lệch bội. Phân loại dựa vào hình thái phôi là một phương pháp không xâm lấn, được áp dụng rộng rãi để lựa chọn phôi chuyển. Một nghiên cứu đã cho thấy rằng hình thái của phôi nang đóng vai trò là yếu tố dự đoán cho tình trạng nhiễm sắc thể của chúng: phôi nang có hình thái tốt nhất thể hiện tỷ lệ nguyên bội cao nhất, trong khi hình thái kém thể hiện tỷ lệ này thấp nhất. Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng sự phát triển phôi từ ngày 3 đến ngày 5 có thể dự đoán tỷ lệ mang thai diễn tiến được cải thiện khi sự phát triển là tối ưu. Đáng chú ý, Magli và cộng sự (2007) đã báo cáo mối tương quan giữa số lượng tế bào có mặt trong giai đoạn phôi phân chia ngày 3 và bất thường nhiễm sắc thể, các bất thường xuất hiện với tỷ lệ thấp nhất được thấy ở phôi có 7 – 8 tế bào. Tuy nhiên, động học hình thái phôi hay hình thái học dự đoán tỷ lệ nguyên bội vẫn còn gây tranh cãi và đòi hỏi phải nghiên cứu thêm, đặc biệt là ở phụ nữ lớn tuổi. Do đó, nghiên cứu này nhằm mục đích làm rõ mối liên quan giữa giai đoạn phôi phân chia ngày 3 và giai đoạn phôi nang ngày 5 với tỷ lệ nguyên bội sau thực hiện PGT-A ở phụ nữ lớn tuổi.
Đây là một nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu trên 101 cặp vợ chồng (325 phôi nang ngày 5 được sinh thiết cho PGT-A), được chia làm 3 nhóm dựa theo độ tuổi nữ: nhóm 1 từ 35 – 37 tuổi (n=37), nhóm 2 từ 38 – 40 tuổi (n=24), nhóm 3 là ≥ 40 tuổi (n=40).
Nghiên cứu cho thấy khi tuổi nữ tăng lên, số lượng noãn bào, phôi phân chia và phôi nang giảm đáng kể. Tuy nhiên, không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ phôi phân chia (p=0,532) và phôi nang (p=0,785) giữa 3 nhóm tuổi nữ. Tỷ lệ phôi tốt lần lượt ở 3 nhóm là: 31,50%; 32,63%; 15,53%.
Từ kết quả PGT-A cho thấy, tỷ lệ nguyên bội tổng thể là 36,62%, tỷ lệ nguyên bội lần lượt ở 3 nhóm là 52,76%; 34,74%; 18,45%. Bên cạnh đó, tỷ lệ nguyên bội ở phôi tốt, phôi kém lần lượt là 55,17%; 29,83% (p≤0,001). Mặc khác, phôi tốt là nguyên bội cao hơn ở tất cả các nhóm tuổi lần lượt là: 67,50% so với 45,98% (p = 0,024); 48,39% so với 28,12% (p = 0,052); 37,50% so với 14,94% (p = 0,072). Ngoài ra, các yếu tố liên quan đến tỷ lệ nguyên bội là tuổi nữ, mức độ nở rộng khoang phôi nang, lớp tế bào lá nuôi, loại phôi nang và sự phát triển phôi.
Nghiên cứu đánh giá các yếu tố hình thái và phát triển của phôi, đặc biệt sau giai đoạn phôi phân chia để xác định các bất thường nhiễm sắc thể. Sự chậm trễ trong quá trình phát triển có thể là kết quả của việc kích hoạt bất thường. Ngược lại, một sự phát triển quá nhanh có thể dẫn đến sự phân chia mất trật tự hoặc bất thường. Các nghiên cứu động học hình thái phôi gần đây đã phát hiện ra rằng các dấu hiệu động học của sự hình thành phôi nang quá chậm và quá nhanh có liên quan đến phôi lệch bội.
Tóm lại, nghiên cứu cho thấy mối liên quan giữa sự phát triển phôi phân chia ngày 3 và phôi nang ngày 5 với tình trạng nguyên bội ở phụ nữ lớn tuổi. Ngoài ra, tỷ lệ nguyên bội cao hơn ở phôi nang có hình thái tốt. Tuy nhiên, cần phải có nhiều nghiên cứu sâu hơn để giúp cải thiện tỷ lệ thành công ART ở phụ nữ lớn tuổi.
TLTK: Santamonkunrot, P.; Samutchinda, S.; Niransuk, P.; Satirapod, C.; Sukprasert, M. The Association between Embryo Development and Chromosomal Results from PGT-A in Women of Advanced Age A Prospective Cohort Study. J. Clin. Med. 2024, 13, 626. httpsdoi.org10.3390jcm13020626
Sự lệch bội nhiễm sắc thể ở phôi là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của công nghệ hỗ trợ sinh sản (Assisted Reproductive Technology – ART) và tăng tỷ lệ sảy thai, đặc biệt ở phụ nữ lớn tuổi. Gần đây, xét nghiệm di truyền tiền làm tổ chẩn đoán phôi lệch bội (Preimplantation Genetic Testing for Aneuploidy – PGT-A) được áp dụng phổ biến trong thực hành lâm sàng và mang lại thành công cho ART. Tuy nhiên, PGT-A có những hạn chế và rủi ro nhất định. Một phân tích tổng hợp gần đây của Kasaven và cộng sự vào năm 2023 cho thấy PGT-A làm tăng tỷ lệ trẻ sinh sống và mang thai diễn tiến. Tuy nhiên, trong báo cáo của Simopoulou và cộng sự năm 2021 cho rằng, PGT-A không cải thiện tỷ lệ trẻ sinh sống chung và chỉ cải thiện ở phụ nữ trên 35 tuổi. Động học hình thái phôi mô tả các quá trình phân chia diễn ra trong suốt quá trình phôi phát triển. Trong quá trình hình thành phôi nang, sự phân chia tế bào liên quan đến quá trình gắn các kinetochore vào các vi ống, quá trình này đòi hỏi các phân tử gắn kết để tách chính xác nhiễm sắc thể và các protein đặc hiệu để biểu hiện gen chính xác. Tuy nhiên, lỗi trong cơ chế phát hiện và tự sửa chữa DNA có thể làm phát sinh phôi lệch bội. Do vậy, những khác biệt trong đánh giá động học hình thái phôi so với quá trình phát triển phôi bình thường có thể dự đoán tình trạng lệch bội. Phân loại dựa vào hình thái phôi là một phương pháp không xâm lấn, được áp dụng rộng rãi để lựa chọn phôi chuyển. Một nghiên cứu đã cho thấy rằng hình thái của phôi nang đóng vai trò là yếu tố dự đoán cho tình trạng nhiễm sắc thể của chúng: phôi nang có hình thái tốt nhất thể hiện tỷ lệ nguyên bội cao nhất, trong khi hình thái kém thể hiện tỷ lệ này thấp nhất. Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng sự phát triển phôi từ ngày 3 đến ngày 5 có thể dự đoán tỷ lệ mang thai diễn tiến được cải thiện khi sự phát triển là tối ưu. Đáng chú ý, Magli và cộng sự (2007) đã báo cáo mối tương quan giữa số lượng tế bào có mặt trong giai đoạn phôi phân chia ngày 3 và bất thường nhiễm sắc thể, các bất thường xuất hiện với tỷ lệ thấp nhất được thấy ở phôi có 7 – 8 tế bào. Tuy nhiên, động học hình thái phôi hay hình thái học dự đoán tỷ lệ nguyên bội vẫn còn gây tranh cãi và đòi hỏi phải nghiên cứu thêm, đặc biệt là ở phụ nữ lớn tuổi. Do đó, nghiên cứu này nhằm mục đích làm rõ mối liên quan giữa giai đoạn phôi phân chia ngày 3 và giai đoạn phôi nang ngày 5 với tỷ lệ nguyên bội sau thực hiện PGT-A ở phụ nữ lớn tuổi.
Đây là một nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu trên 101 cặp vợ chồng (325 phôi nang ngày 5 được sinh thiết cho PGT-A), được chia làm 3 nhóm dựa theo độ tuổi nữ: nhóm 1 từ 35 – 37 tuổi (n=37), nhóm 2 từ 38 – 40 tuổi (n=24), nhóm 3 là ≥ 40 tuổi (n=40).
Nghiên cứu cho thấy khi tuổi nữ tăng lên, số lượng noãn bào, phôi phân chia và phôi nang giảm đáng kể. Tuy nhiên, không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ phôi phân chia (p=0,532) và phôi nang (p=0,785) giữa 3 nhóm tuổi nữ. Tỷ lệ phôi tốt lần lượt ở 3 nhóm là: 31,50%; 32,63%; 15,53%.
Từ kết quả PGT-A cho thấy, tỷ lệ nguyên bội tổng thể là 36,62%, tỷ lệ nguyên bội lần lượt ở 3 nhóm là 52,76%; 34,74%; 18,45%. Bên cạnh đó, tỷ lệ nguyên bội ở phôi tốt, phôi kém lần lượt là 55,17%; 29,83% (p≤0,001). Mặc khác, phôi tốt là nguyên bội cao hơn ở tất cả các nhóm tuổi lần lượt là: 67,50% so với 45,98% (p = 0,024); 48,39% so với 28,12% (p = 0,052); 37,50% so với 14,94% (p = 0,072). Ngoài ra, các yếu tố liên quan đến tỷ lệ nguyên bội là tuổi nữ, mức độ nở rộng khoang phôi nang, lớp tế bào lá nuôi, loại phôi nang và sự phát triển phôi.
Nghiên cứu đánh giá các yếu tố hình thái và phát triển của phôi, đặc biệt sau giai đoạn phôi phân chia để xác định các bất thường nhiễm sắc thể. Sự chậm trễ trong quá trình phát triển có thể là kết quả của việc kích hoạt bất thường. Ngược lại, một sự phát triển quá nhanh có thể dẫn đến sự phân chia mất trật tự hoặc bất thường. Các nghiên cứu động học hình thái phôi gần đây đã phát hiện ra rằng các dấu hiệu động học của sự hình thành phôi nang quá chậm và quá nhanh có liên quan đến phôi lệch bội.
Tóm lại, nghiên cứu cho thấy mối liên quan giữa sự phát triển phôi phân chia ngày 3 và phôi nang ngày 5 với tình trạng nguyên bội ở phụ nữ lớn tuổi. Ngoài ra, tỷ lệ nguyên bội cao hơn ở phôi nang có hình thái tốt. Tuy nhiên, cần phải có nhiều nghiên cứu sâu hơn để giúp cải thiện tỷ lệ thành công ART ở phụ nữ lớn tuổi.
TLTK: Santamonkunrot, P.; Samutchinda, S.; Niransuk, P.; Satirapod, C.; Sukprasert, M. The Association between Embryo Development and Chromosomal Results from PGT-A in Women of Advanced Age A Prospective Cohort Study. J. Clin. Med. 2024, 13, 626. httpsdoi.org10.3390jcm13020626
Các tin khác cùng chuyên mục:
Phôi phân chia bất thường đến ngày 3 nhưng phát triển thành phôi nang hoàn chỉnh không ảnh hưởng đến kết quả sinh sống và sơ sinh khi : một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu - Ngày đăng: 27-04-2024
Hoạt hoá noãn nhân tạo bằng Ca2+ Ionophore giúp cải thiện kết quả ở những bệnh nhân tiền căn thất bại thụ tinh và phôi phát triển kém - Ngày đăng: 26-04-2024
Cải thiện mức độ phân mảnh DNA của tinh trùng ở nam giới vô sinh sau thời gian kiêng xuất tinh ngắn từ 3–4 giờ - Ngày đăng: 26-04-2024
Xử lý mô bằng enzyme sau khi sinh thiết tinh hoàn trong trường hợp vô tinh không tắc nghẽn giúp tăng khả năng thu nhận tinh trùng - Ngày đăng: 26-04-2024
Chuẩn bị tinh trùng bằng phương pháp vi dòng chảy có thể cải thiện kết quả tiêm tinh trùng vào bào tương noãn so với phương pháp ly tâm thang nồng độ - Ngày đăng: 26-04-2024
Tác động của xét nghiệm di truyền tiền làm tổ đến kết quả sản khoa và sơ sinh: tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp - Ngày đăng: 26-04-2024
Ảnh hưởng của việc chuyển hai phôi chất lượng kém và chất lượng tốt đến kết quả thai kỳ và chu sinh trong chu kỳ chuyển phôi trữ - Ngày đăng: 24-04-2024
miR-6881-3p góp phần làm giảm dự trữ buồng trứng bằng cách điều chỉnh quá trình apoptosis của tế bào hạt thông qua việc nhắm trúng đích gene SMAD4 - Ngày đăng: 22-04-2024
Phác đồ kích thích buồng trứng sử dụng mồi Progestin (PPOS) mang lại tỷ lệ phôi nguyên bội thấp hơn ở những bệnh nhân lớn tuổi đang điều trị IVF - Ngày đăng: 22-04-2024
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK