Tin tức
on Monday 22-04-2024 6:02am
Danh mục: Tin quốc tế
ThS. Nguyễn Thị Tú Trinh – IVFMD Phú Nhuận
Giới thiệu
Vì nhiều lý do, sự thụ thai tự nhiên có thể là một thách thức. Ngày nay tỷ lệ sinh ngày càng giảm, tuổi làm mẹ và số lượng bệnh nhân phụ thuộc vào hỗ trợ sinh sản ngày càng tăng. Một trong những yếu tố chính của sự suy giảm khả năng sinh sản liên quan đến tuổi tác có thể là do giảm chất lượng noãn. Tuổi người phụ nữ cao có thể có nhiều khả năng bị ảnh hưởng bởi sự phân phối không đều nhiễm sắc thể từ đó dẫn đến tỷ lệ sẩy thai sớm hoặc vô sinh cao hơn. Khoảng 10 – 30% số noãn được thụ tinh là lệch bội, khiến nó trở thành nguyên nhân hàng đầu gây sẩy thai. Kết quả lệch bội chủ yếu do sự thất bại trong phân ly nhiễm sắc thể của quá trình sinh noãn và tần số của những lỗi này tăng đáng kể khi người phụ nữ ngày càng lớn tuổi đi. Người ta ước tính rằng chỉ có một tỷ lệ nhỏ dưới 1% lỗi giảm phân có nguồn gốc từ cha. Việc phân tích các thể cực có thể ghi nhận được thông tin lệch bội có nguồn gốc từ quá trình giảm phân sinh noãn, do đó có thể phát hiện lệch bội di truyền từ mẹ.
Sinh thiết thể cực (Polar body biopsy – PBB) được hiểu là phương pháp an toàn để tầm soát lệch bội tiền làm tổ (preimplantation genetic testing – PGT) mà không ảnh hưởng đến các thông số động học hình thái ở giai đoạn phát triển phôi sớm. Phương pháp này ít xâm lấn hơn so với phương pháp sinh thiết phôi bào và sinh thiết tế bào lá nuôi phôi vì thể cực là sản phẩm phụ của noãn trưởng thành và không cần thiết cho sự tiếp tục phát triển của phôi. Mặc dù tỷ lệ trẻ sinh sống không cao hơn đáng kể khi thực hiện sinh thiết thể cực – IVF cổ điển/ ICSI, tuy nhiên hai nghiên cứu độc lập cho thấy PBB có tỷ lệ sẩy thai thấp hơn đáng kể.
Trong các chu kỳ IVF/ICSI, phôi được lựa chọn dựa theo tiêu chuẩn hình thái. Những phôi nang được xếp loại chất lượng tốt dựa theo tiêu chuẩn hình thái được coi là có tiềm năng để chuyển vào buồng tử cung. Cho đến nay, chưa có nghiên cứu nào khảo sát tác động của lệch bội do quá trình giảm phân sinh noãn. Do đó nghiên cứu này được tiến hành để đánh giá tiềm năng phát triển phôi gia đoạn sớm của những phôi bị ảnh hưởng bởi thể lệch bội giảm phân được di truyền từ mẹ.
Phương pháp
Nghiên cứu hồi cứu đơn trung tâm, nghiên cứu mô tả, quan sát. Bao gồm 930 noãn từ 151 bệnh nhân được phân tích hồi cứu bằng cách kết hợp đánh giá hình thái với kết quả tầm soát lệch bội từ sinh thiết thể cực giai đoạn 2016 đến 2020. Nghiên cứu bao gồm những bệnh nhân nữ trẻ hơn 42 tuổi. Các chu kỳ xét nghiệm di truyền tiền làm tổ phát hiện các rối loạn đơn gen (PGT-M), bệnh nhân chuyển đoạn cân bằng, tinh trùng thu nhận từ thủ thuật hoặc tổng số tinh trùng dưới 2 triệu bị loại khỏi nghiên cứu.
Kết quả
Trong số 930 noãn được phân tích, có 566 (60,9%) cho kết quả lệch bội, 364 (39,1%) là nguyên bội. Nhìn chung, noãn nguyên bội có nguồn gốc từ những người phụ nữ trẻ hơn so với lệch bội (37,98 tuổi so với 39,23 tuổi p= <0,001).
Trong 566 noãn lệch bội, có 188 (33,2%) phôi monosomy, 145 (25,6%) phôi trisomy, 5 (0,9%) phôi bất thường nhiễm sắc thể giới tính và 228 (40,3%) có nhiều nhiễm sắc thể phân phối không đều. Bốn bất thường nhiễm sắc thể phổ biến nhất liên quan đến nhiễm sắc thể 15, 16, 21 và 22.
Tiềm năng phát triển cho đến giai đoạn phôi phân chia không bị ảnh hưởng bởi trisomy hoặc monosomy (69,6% so với 77,1%, p=0,75). Tuy nhiên, trisomy thường có tỷ lệ phôi ngày 3 chất lượng tốt đáng kể hơn so với phôi monosomy (20% so với 17,6%, p= <0,01):
1. Monosomy
Trong toàn bộ monosomy, phổ biến nhất là monosomy 16 (14,4%), monosomy 22 (13%), monosomy 21 (10,9%) and monosomy 15 (8,1%). Không có monosomy nào xảy có nguồn gốc từ noãn của người phụ nữ dưới 29 tuổi.
Tổng cộng 284 monosomy được xác định bằng sinh thiết thể cực, có 188 (66,2%) phôi chỉ có 1 hoặc 2 monosomy. Tính đến giai đoạn phôi ngày 3 có 145/188 (77,1%) phôi và 33/188 (17,6%) phôi chất lượng tốt. Tính đến giai đoạn phôi nang, có 53/188 (28,2%) phôi và 10/188 (5,3%) phôi nang chất lượng tốt giảm 1 nhiễm sắc thể trong các monosomy 2,5,8,10,16,17,20,21,22.
2. Trisomy
Trong tất cả trisomy, nhiều nhất là trisomy 16 (13,1%), trisomy 22 (12,2%), trisomy 15 (11,4%) và trisomy 21 (10,5%). Tỷ lệ trisomy tăng theo tuổi người phụ nữ.
Tổng cộng có 237 trisomy được xác định, số phôi có một hoặc hai trisomy là 145/237 (61,2%). Giai đoạn phôi ngày 3 có 101/145 (69,6%) phôi, 29/145 (20%) phôi chất lượng tốt. Giai đoạn phôi nang có 41/145 (28,3%) phôi và 12/145 (8,3%) phôi chất lượng tốt bao gồm trisomy 2, 4, 5, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 16, 17, 18 và 20.
Phôi nang chất lượng tốt có nhiều khả năng là nguyên bội hơn là lệch bội (52,4% so với 47,6%, p=0,032). Ngoài ra, có nhiều phôi lệch bội dẫn đến ngừng phát triển đáng kể hơn so với phôi nguyên bội (15,3% so với 6,7%, p=0,003). Nhìn chung, không có sự khác biệt đáng kể về tần số trisomy và monosomy ở phôi giai đoạn phôi nang (28,3% so với 28,2%; p=0,81). Sự phân bố của trisomy và monosomy không khác nhau ở các phôi nang chất lượng tốt (8,3% so với 5,3% p=0,32). Một số bất thường về nhiễm sắc thể nhất định cho thấy khả năng phát triển thành phôi nang cao hơn. Chúng bao gồm các monosomy 2, 5, 8, 10, 16, 17, 20, 21 và 22 và trisomy 2, 4, 5, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 16, 17, 18 và 20.
Kết luận
Các lệch bội giảm phân có nguồn gốc từ mẹ gây ra những ảnh hưởng khác nhau đến sự phát triển phôi sớm. Trong khi không có sự khác biệt về tiềm năng phát triển giữa monosomy và trisomy có thể được quan sát thấy ở phôi nang, giai đoạn phân chia chất lượng bị ảnh hưởng đáng kể bởi sự lệch bội nhiễm sắc thể. Nhìn chung, phôi trisomy không có tiềm năng phát triển thành phôi nang chất lượng tốt nhiều hơn so với phôi monosomy. Do đó, việc đánh giá theo tiêu chuẩn hình thái chưa đủ để chọn lựa phôi phù hợp nhất để chuyển vào buồng tử cung, vẫn có một tỷ lệ nhất định phôi lệch bội được chuyển mà không thực hiện tầm soát lệch bội giai đoạn tiền làm tổ. Điều này có thể dẫn đến giảm tỷ lệ thai và tăng tỷ lệ sẩy thai.
Nguồn: L T, A E, L C, E V, M F. Impact of maternally derived meiotic aneuploidies on early embryonic development in vitro. J Assist Reprod Genet. 2023 Nov;40(11):2715-2723. doi: 10.1007/s10815-023-02922-9. Epub 2023 Aug 26. PMID: 37632639; PMCID: PMC10643722.
Giới thiệu
Vì nhiều lý do, sự thụ thai tự nhiên có thể là một thách thức. Ngày nay tỷ lệ sinh ngày càng giảm, tuổi làm mẹ và số lượng bệnh nhân phụ thuộc vào hỗ trợ sinh sản ngày càng tăng. Một trong những yếu tố chính của sự suy giảm khả năng sinh sản liên quan đến tuổi tác có thể là do giảm chất lượng noãn. Tuổi người phụ nữ cao có thể có nhiều khả năng bị ảnh hưởng bởi sự phân phối không đều nhiễm sắc thể từ đó dẫn đến tỷ lệ sẩy thai sớm hoặc vô sinh cao hơn. Khoảng 10 – 30% số noãn được thụ tinh là lệch bội, khiến nó trở thành nguyên nhân hàng đầu gây sẩy thai. Kết quả lệch bội chủ yếu do sự thất bại trong phân ly nhiễm sắc thể của quá trình sinh noãn và tần số của những lỗi này tăng đáng kể khi người phụ nữ ngày càng lớn tuổi đi. Người ta ước tính rằng chỉ có một tỷ lệ nhỏ dưới 1% lỗi giảm phân có nguồn gốc từ cha. Việc phân tích các thể cực có thể ghi nhận được thông tin lệch bội có nguồn gốc từ quá trình giảm phân sinh noãn, do đó có thể phát hiện lệch bội di truyền từ mẹ.
Sinh thiết thể cực (Polar body biopsy – PBB) được hiểu là phương pháp an toàn để tầm soát lệch bội tiền làm tổ (preimplantation genetic testing – PGT) mà không ảnh hưởng đến các thông số động học hình thái ở giai đoạn phát triển phôi sớm. Phương pháp này ít xâm lấn hơn so với phương pháp sinh thiết phôi bào và sinh thiết tế bào lá nuôi phôi vì thể cực là sản phẩm phụ của noãn trưởng thành và không cần thiết cho sự tiếp tục phát triển của phôi. Mặc dù tỷ lệ trẻ sinh sống không cao hơn đáng kể khi thực hiện sinh thiết thể cực – IVF cổ điển/ ICSI, tuy nhiên hai nghiên cứu độc lập cho thấy PBB có tỷ lệ sẩy thai thấp hơn đáng kể.
Trong các chu kỳ IVF/ICSI, phôi được lựa chọn dựa theo tiêu chuẩn hình thái. Những phôi nang được xếp loại chất lượng tốt dựa theo tiêu chuẩn hình thái được coi là có tiềm năng để chuyển vào buồng tử cung. Cho đến nay, chưa có nghiên cứu nào khảo sát tác động của lệch bội do quá trình giảm phân sinh noãn. Do đó nghiên cứu này được tiến hành để đánh giá tiềm năng phát triển phôi gia đoạn sớm của những phôi bị ảnh hưởng bởi thể lệch bội giảm phân được di truyền từ mẹ.
Phương pháp
Nghiên cứu hồi cứu đơn trung tâm, nghiên cứu mô tả, quan sát. Bao gồm 930 noãn từ 151 bệnh nhân được phân tích hồi cứu bằng cách kết hợp đánh giá hình thái với kết quả tầm soát lệch bội từ sinh thiết thể cực giai đoạn 2016 đến 2020. Nghiên cứu bao gồm những bệnh nhân nữ trẻ hơn 42 tuổi. Các chu kỳ xét nghiệm di truyền tiền làm tổ phát hiện các rối loạn đơn gen (PGT-M), bệnh nhân chuyển đoạn cân bằng, tinh trùng thu nhận từ thủ thuật hoặc tổng số tinh trùng dưới 2 triệu bị loại khỏi nghiên cứu.
Kết quả
Trong số 930 noãn được phân tích, có 566 (60,9%) cho kết quả lệch bội, 364 (39,1%) là nguyên bội. Nhìn chung, noãn nguyên bội có nguồn gốc từ những người phụ nữ trẻ hơn so với lệch bội (37,98 tuổi so với 39,23 tuổi p= <0,001).
Trong 566 noãn lệch bội, có 188 (33,2%) phôi monosomy, 145 (25,6%) phôi trisomy, 5 (0,9%) phôi bất thường nhiễm sắc thể giới tính và 228 (40,3%) có nhiều nhiễm sắc thể phân phối không đều. Bốn bất thường nhiễm sắc thể phổ biến nhất liên quan đến nhiễm sắc thể 15, 16, 21 và 22.
Tiềm năng phát triển cho đến giai đoạn phôi phân chia không bị ảnh hưởng bởi trisomy hoặc monosomy (69,6% so với 77,1%, p=0,75). Tuy nhiên, trisomy thường có tỷ lệ phôi ngày 3 chất lượng tốt đáng kể hơn so với phôi monosomy (20% so với 17,6%, p= <0,01):
1. Monosomy
Trong toàn bộ monosomy, phổ biến nhất là monosomy 16 (14,4%), monosomy 22 (13%), monosomy 21 (10,9%) and monosomy 15 (8,1%). Không có monosomy nào xảy có nguồn gốc từ noãn của người phụ nữ dưới 29 tuổi.
Tổng cộng 284 monosomy được xác định bằng sinh thiết thể cực, có 188 (66,2%) phôi chỉ có 1 hoặc 2 monosomy. Tính đến giai đoạn phôi ngày 3 có 145/188 (77,1%) phôi và 33/188 (17,6%) phôi chất lượng tốt. Tính đến giai đoạn phôi nang, có 53/188 (28,2%) phôi và 10/188 (5,3%) phôi nang chất lượng tốt giảm 1 nhiễm sắc thể trong các monosomy 2,5,8,10,16,17,20,21,22.
2. Trisomy
Trong tất cả trisomy, nhiều nhất là trisomy 16 (13,1%), trisomy 22 (12,2%), trisomy 15 (11,4%) và trisomy 21 (10,5%). Tỷ lệ trisomy tăng theo tuổi người phụ nữ.
Tổng cộng có 237 trisomy được xác định, số phôi có một hoặc hai trisomy là 145/237 (61,2%). Giai đoạn phôi ngày 3 có 101/145 (69,6%) phôi, 29/145 (20%) phôi chất lượng tốt. Giai đoạn phôi nang có 41/145 (28,3%) phôi và 12/145 (8,3%) phôi chất lượng tốt bao gồm trisomy 2, 4, 5, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 16, 17, 18 và 20.
Phôi nang chất lượng tốt có nhiều khả năng là nguyên bội hơn là lệch bội (52,4% so với 47,6%, p=0,032). Ngoài ra, có nhiều phôi lệch bội dẫn đến ngừng phát triển đáng kể hơn so với phôi nguyên bội (15,3% so với 6,7%, p=0,003). Nhìn chung, không có sự khác biệt đáng kể về tần số trisomy và monosomy ở phôi giai đoạn phôi nang (28,3% so với 28,2%; p=0,81). Sự phân bố của trisomy và monosomy không khác nhau ở các phôi nang chất lượng tốt (8,3% so với 5,3% p=0,32). Một số bất thường về nhiễm sắc thể nhất định cho thấy khả năng phát triển thành phôi nang cao hơn. Chúng bao gồm các monosomy 2, 5, 8, 10, 16, 17, 20, 21 và 22 và trisomy 2, 4, 5, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 16, 17, 18 và 20.
Kết luận
Các lệch bội giảm phân có nguồn gốc từ mẹ gây ra những ảnh hưởng khác nhau đến sự phát triển phôi sớm. Trong khi không có sự khác biệt về tiềm năng phát triển giữa monosomy và trisomy có thể được quan sát thấy ở phôi nang, giai đoạn phân chia chất lượng bị ảnh hưởng đáng kể bởi sự lệch bội nhiễm sắc thể. Nhìn chung, phôi trisomy không có tiềm năng phát triển thành phôi nang chất lượng tốt nhiều hơn so với phôi monosomy. Do đó, việc đánh giá theo tiêu chuẩn hình thái chưa đủ để chọn lựa phôi phù hợp nhất để chuyển vào buồng tử cung, vẫn có một tỷ lệ nhất định phôi lệch bội được chuyển mà không thực hiện tầm soát lệch bội giai đoạn tiền làm tổ. Điều này có thể dẫn đến giảm tỷ lệ thai và tăng tỷ lệ sẩy thai.
Nguồn: L T, A E, L C, E V, M F. Impact of maternally derived meiotic aneuploidies on early embryonic development in vitro. J Assist Reprod Genet. 2023 Nov;40(11):2715-2723. doi: 10.1007/s10815-023-02922-9. Epub 2023 Aug 26. PMID: 37632639; PMCID: PMC10643722.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Diện tích noãn người có liên quan đến sự phát triển phôi sớm và phôi tiền làm tổ hữu dụng: Đoàn hệ tiến cứu Rotterdam - Ngày đăng: 22-04-2024
Tỷ lệ trẻ sinh sống cộng dồn và kết quả sơ sinh sau rescue ICSI sớm: một phân tích đối sánh điểm xu hướng - Ngày đăng: 22-04-2024
Tác động của LNMTC buồng trứng và phẫu thuật đối với kết quả sinh sản: nghiên cứu đoàn hệ ở một trung tâm Tây Ban Nha - Ngày đăng: 22-04-2024
PGT-A có liên quan đến giảm tỷ lệ sinh sống tích lũy trong chu kỳ IVF được báo cáo đầu tiên ở độ tuổi ≤ 40: phân tích 133.494 chu kỳ tự thân được báo cáo bởi SART CORS - Ngày đăng: 22-04-2024
Tần suất lạc nội mạc tử cung ở phụ nữ hiếm muộn được chẩn đoán chưa rõ nguyên nhân: Một tổng quan hệ thống - Ngày đăng: 22-04-2024
Chiến lược trữ phôi toàn bộ dường như cải thiện cơ hội sinh con ở những phụ nữ bị ảnh hưởng bởi bệnh cơ tuyến tử cung - Ngày đăng: 15-04-2024
Tổng quan hệ thống về kết quả mang thai lần kế tiếp ở các cặp vợ chồng có karyotypes bất thường và sảy thai liên tiếp - Ngày đăng: 15-04-2024
Ảnh hưởng của tình trạng thừa cân/béo phì ở nam và nữ đến kết quả IVF - Ngày đăng: 15-04-2024
Tác động của độ tuổi người cha đến sức khoẻ con cái - Ngày đăng: 15-04-2024
Hệ thống thủy tinh hóa phôi bán tự động nhỏ gọn, công suất cao dựa trên hydrogel - Ngày đăng: 15-04-2024
Điều hòa chất lượng tinh trùng bằng acid béo: từ khẩu phần ăn đến chất bảo quản và tinh dịch - Ngày đăng: 15-04-2024
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK