Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Friday 26-04-2024 2:15am
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
CN.CNSH Phan Thị Ngọc Linh – IVFMD Tân Bình

Giới thiệu:
Trích tinh trùng từ tinh hoàn (testicular sperm extraction – TESE) kết hợp với ICSI là một bước đột phá lớn trong việc điều trị nam giới bị vô tinh không do tắc nghẽn (non-obstructive azoospermia – NOA), với những đứa trẻ đầu tiên được sinh ra theo thủ thuật này vào năm 1995. Tuy nhiên, cho đến nay, chỉ có một số ít nam giới mắc NOA có thể sinh con di truyền của mình do những hạn chế về cả tỷ lệ thu hồi tinh trùng (sperm retrieval – SR) và kết quả sau ICSI khi sử dụng tinh trùng trong tinh hoàn của họ. Một số yếu tố (thể tích tinh hoàn, mức độ FSH và inhibin B) đã được nghiên cứu như là các chỉ báo dự đoán khả năng phục hồi tinh trùng ở nam giới bị NOA. Hai phương pháp phẫu thuật được sử dụng cho bệnh nhân NOA là phương pháp TESE thông thường (c-TESE) hoặc TESE vi phẫu (m-TESE). Các phương pháp ly trích tinh trùng từ mô tinh hoàn hiện nay bao gồm: xé nhỏ mô tinh hoàn bằng kim nhỏ, sử dụng dung dịch đệm ly giải hồng cầu và sử dụng enzyme. Xé nhỏ mô tinh hoàn là kỹ thuật đầu tiên được sử dụng nhiều nhất để thu nhận tinh trùng với mục đích làm vỡ mô tinh hoàn và mở rộng các ống sinh tinh. Các tế bào hồng cầu có thể gây khó khăn trong việc quan sát tinh trùng chính xác trong mẫu tinh hoàn. Trong NOA, việc tìm kiếm tinh trùng bằng xé nhỏ mô thông thường bị hạn chế bởi số lượng tinh trùng cực kì thấp và để lại nhiều mô thừa trong quá trình xé. Điều này làm phức tạp việc thu hồi tinh trùng sau khi tìm kiếm và gây tốn thời gian. Sử dụng enzyme đặc biệt là collagenase để phân hủy chất nền ngoại bào có thể cải thiện khả năng phát hiện tinh trùng ẩn giữa các tế bào khác, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu nhận tinh trùng. Collagenase loại IA và IV đều được sử dụng để phân hủy collagen của màng đáy và chất nền ngoại bào. Các công trình khoa học về bốn loại collagenase khác nhau đã được thực hiện và nhận thấy Collagenase IV có hiệu quả nhất trong việc thu hồi tinh trùng. Do đó, mục đích của nghiên cứu là đánh giá hiệu quả giữa sử dụng enzyme so với phương pháp xé cơ học lên khả năng thu nhận tinh trùng sau TESE ở bệnh nhân NOA.
 
Phương pháp:
Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu này bao gồm tất cả các bệnh nhân NOA được xác định nghiêm ngặt dựa vào kết quả sinh thiết mô và đã được điều trị TESE một lần tại trung tâm trong khoảng thời gian từ tháng 1 năm 2004 đến tháng 7 năm 2022. Chỉ những bệnh nhân có nhiễm sắc thể bình thường, không có đột biến vi mất đoạn Yq và được chẩn đoán là NOA dựa trên kết quả mô học mới được đưa vào nghiên cứu. Những bệnh nhân được chẩn đoán mô học là giảm sinh tinh đã bị loại khỏi phân tích vì có tỷ lệ SR tương tự như những bệnh nhân có sinh tinh bình thường.
 
Kết quả:
Nghiên cứu bao gồm 118 bệnh nhân, trong đó 72 (61,0%) đã thu nhận được tinh trùng thành công. Trong đó:
-        Với phương pháp xé cơ học tinh trùng đã được thu nhận thành công ở 28 bệnh nhân (23,7%; 28/118). Với phương pháp enzyme, 44 bệnh nhân đã thu nhận được tinh trùng (37,2%; 44/118).
-        Trong số 90 bệnh nhân thu tinh trùng thất bại bởi phương pháp xé cơ học sẽ được thực hiện phương pháp enzyme với 44 bệnh nhân được thu nhận tinh trùng thành công (48,9%).
Không có sự khác biệt về nồng độ FSH trung bình, tuổi trung bình, thể tích tinh hoàn trung bình, xơ cứng hoặc teo hoặc ngừng trưởng thành tinh hoàn, tiền sử tinh hoàn ẩn hoặc sự hiện diện của giãn tĩnh mạch thừng tinh được quan sát giữa các bệnh nhân. Tương tự, không tìm thấy sự khác biệt về các thông số trên giữa những bệnh nhân thu hồi  tinh trùng sau khi xé nhỏ hoặc sau khi phân hủy bằng enzyme collagenase IV.
Tỷ lệ thụ tinh thấp hơn đáng kể ở nhóm thu tinh trùng bằng sử dụng enzyme so với nhóm xé cơ học (63,7% so với 41,4%; P  = 0,002). Số chu kỳ thất bại thấp hơn, nhưng không khác biệt đáng kể ở cả sử dụng enzyme và xé cơ học (3,6% so với 15,9%; P  = 0,087). Tỷ lệ phôi tốt và tỷ lệ chuyển phôi là tương đương giữa 2 phương pháp.

Tỷ lệ sinh sống tích lũy ở nhóm thu tinh trùng từ tinh hoàn thu bằng enzyme là 31,8% (14/44), trong khi tỷ lệ sinh sống tích lũy ở nhóm thu tinh trùng bằng xé cơ học đơn thuần là 64,3% (18/28). Các phân tích hồi quy cho thấy, xử lý thêm bằng enzyme có thể làm giảm tỷ lệ sinh sống tích lũy.
 
Kết luận:
Việc sử dụng phương pháp xử lý mô bằng enzyme sau khi sinh thiết đã tăng khả năng thu nhận tinh trùng. Tỷ lệ thu nhận tinh trùng từ các mẫu đã qua xử lý enzyme là cao hơn so với các mẫu không được xử lý. Điều này có thể thấy rằng, xử lý mô bằng enzyme có thể là một phương pháp hiệu quả để tăng khả năng tìm thấy tinh trùng trong trường hợp NOA.
 
TLTK:  Vloeberghs V, De Munck N, Racca A, Mateizel I, Wouters K, Tournaye H. Enzymatic tissue processing after testicular biopsy in non-obstructive azoospermia enhances sperm retrieval. Hum Reprod Open. 2023;2023(4):hoad039. Published 2023 Oct 18. doi:10.1093/hropen/hoad039  
 
Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

New World Saigon Hotel (Số 76 Lê Lai, Phường Bến Nghé, Quận 1, ...

Năm 2020

Caravelle Hotel Saigon, chiều thứ bảy 20.4 và chủ nhật 21.4.2024

Năm 2020

Khách sạn Caravelle Saigon, Chủ nhật 21.1.2024 (9:00 - 11:15)

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Sách ra mắt ngày 9 . 3 . 2024 và gửi đến quý hội viên trước ...

Y học sinh sản số 68 ra mắt ngày 25 . 12 . 2023 và gửi đến quý ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK