Tin tức
on Tuesday 05-03-2024 9:53pm
Danh mục: Tin quốc tế
CN. CNSH Phan Thị Ngọc Linh – IVFMD Tân Bình
Thụ tinh trong ống nghiệm (in vitro fertilization - IVF) là chỉ định phổ biến cho LNMTC. Nhưng tác động của LNMTC đối với kết quả IVF không rõ ràng. Mối liên hệ giữa IVF và LNMTC, cũng như giữa LNMTC và chất lượng noãn, phôi vẫn chưa được xác định rõ.
Đánh giá chất lượng noãn và phôi
Chất lượng noãn trong hỗ trợ sinh sản thường được đánh giá dựa trên hình thái: tính đồng nhất của tế bào chất, sự hiện diện của không bào, sự tập hợp của mạng lưới nội chất trơn và các đặc điểm ngoại bào như hình thái thể cực thứ nhất, kích thước khoảng không quanh noãn (perivitelline space - PVS), bất thường màng trong suốt (zona pellucidase - ZP) và bất thường về hình dạng. Noãn lý tưởng có cấu trúc hình tròn, ZP đồng nhất, tế bào chất đồng nhất, không có thể vùi và thể cực có kích thước phù hợp.
LNMTC buồng trứng có thể tăng viêm vùng chậu và stress oxy hóa, ảnh hưởng đến phát triển nang noãn và hình thái noãn. Các gốc oxy hóa (Reactive oxygen species - ROS) hoạt động quá mức gây bất thường phân bào và mất ổn định nhiễm sắc thể. Hơn nữa, môi trường nang noãn ở phụ nữ vô sinh bị LNMTC cho thấy khả năng chống oxy hóa thấp và stress oxy hóa cao. Trình tự RNA của noãn ở bệnh nhân LNMTC buồng trứng và phụ nữ bình thường có những đặc điểm phiên mã khác biệt liên quan đến chất lượng noãn thấp hơn. Các con đường bị ảnh hưởng bao gồm những con đường liên quan đến các quá trình sinh học quan trọng như chuyển hóa steroid, phản ứng với stress oxy hóa và điều hòa tăng trưởng tế bào.
Các bằng chứng lâm sàng về hình thái noãn đến kết quả sinh sản ở phụ nữ LNMTC trải qua IVF vẫn còn hạn chế. Mặc dù có bằng chứng cho thấy hình thái noãn mang bất thường hình thái có thể có tác động xấu đến tỷ lệ thụ tinh, nhưng hầu hết các nghiên cứu đều chỉ ra rằng không có sự khác biệt về tỷ lệ phôi phân chia, làm tổ hoặc mang thai lâm sàng sau IVF, vì vậy có thể thấy rằng một khi noãn được thụ tinh, cơ hội mang thai là như nhau ở phụ nữ có và không bị LNMTC.
Mặc dù bệnh nhân LNMTC thường có số lượng noãn và số lượng noãn trưởng thành thu được trong quá trình IVF thấp hơn so với nhóm vô sinh do vấn đề ống dẫn trứng và yếu tố đến từ nam giới, nhưng không có sự khác biệt về tỷ lệ phôi tốt, tỷ lệ mang thai lâm sàng hoặc tỷ lệ trẻ sinh khi so với hai nhóm vô sinh này.
Dienogest là một progestin thế hệ mới, có tác động chọn lọc đối với thụ thể progesterone và gây hiệu ứng giảm estrogen. Tuy nhiên, khi nghiên cứu tác động của Dienogest lên chất lượng noãn và phôi ở bệnh nhân LNMTC đã cho thấy các kết quả khác nhau. Một nghiên cứu cho thấy bệnh nhân LNMTC sử dụng Dienogest có tỷ lệ mang thai (44,7% so với 16,7%) và tỷ lệ sinh con sống (36,8% so với 11,1%) cao hơn đáng kể so với nhóm không sử dụng. Nhiều nghiên cứu còn cho thấy, điều trị bằng Dienogest và GnRH agonist triptorelin sau phẫu thuật nội soi và trước khi kích thích buồng trứng trong IVF có thể thu được nhiều noãn và tỷ lệ phôi tốt cao hơn so với phụ nữ không điều trị. Tuy nhiên một vài nghiên cứu khác lại ghi nhận không có sự khác biệt nào giữa bệnh nhân được điều trị và không được điều trị với Dienogest.
Các phương pháp hỗ trợ điều trị khác cũng đang được phát triển hiện nay như sử dụng chất chống oxy hóa (vitamin C/E, N-acetyl cysteine,…), chất kháng viêm, chất ức chế tạo mạch, cho thấy những kết quả khả quan về chất lượng noãn, giảm các yếu tố ROS và viêm trong dịch nang. Tuy nhiên vẫn cần phải nghiên cứu thêm về sự hoạt động của các chất này đối với noãn và phôi.
Kết quả điều trị bằng phẫu thuật ở những bệnh nhân đã trải qua phẫu thuật điều trị LNMTC xâm nhiễm sâu trước IVF, so với những bệnh nhân đã trải qua IVF mà không phẫu thuật trước đó, cho thấy rằng phẫu thuật trước IVF có thể giúp cải thiện kết quả mang thai. Một nghiên cứu khác đã so sánh điều trị phẫu thuật đối với LNMTC kèm vô sinh giai đoạn I/II với phương pháp nội soi ở 661 phụ nữ đã từng thất bại IVF trước đó, cho thấy sự cải thiện nhỏ về tỷ lệ trẻ sinh sống (27,7% so với 20,6%) và có cải thiện đáng kể về tỷ lệ làm tổ, tỷ lệ mang thai so với trước khi điều trị.
Nguồn: Latif S, Saridogan E. Endometriosis, Oocyte, and Embryo Quality. Journal of Clinical Medicine. 2023; 12(13):4186. https://doi.org/10.3390/jcm12134186
- Giới thiệu
Thụ tinh trong ống nghiệm (in vitro fertilization - IVF) là chỉ định phổ biến cho LNMTC. Nhưng tác động của LNMTC đối với kết quả IVF không rõ ràng. Mối liên hệ giữa IVF và LNMTC, cũng như giữa LNMTC và chất lượng noãn, phôi vẫn chưa được xác định rõ.
Đánh giá chất lượng noãn và phôi
Chất lượng noãn trong hỗ trợ sinh sản thường được đánh giá dựa trên hình thái: tính đồng nhất của tế bào chất, sự hiện diện của không bào, sự tập hợp của mạng lưới nội chất trơn và các đặc điểm ngoại bào như hình thái thể cực thứ nhất, kích thước khoảng không quanh noãn (perivitelline space - PVS), bất thường màng trong suốt (zona pellucidase - ZP) và bất thường về hình dạng. Noãn lý tưởng có cấu trúc hình tròn, ZP đồng nhất, tế bào chất đồng nhất, không có thể vùi và thể cực có kích thước phù hợp.
- Chất lượng noãn ở phụ nữ bị LNMTC
LNMTC buồng trứng có thể tăng viêm vùng chậu và stress oxy hóa, ảnh hưởng đến phát triển nang noãn và hình thái noãn. Các gốc oxy hóa (Reactive oxygen species - ROS) hoạt động quá mức gây bất thường phân bào và mất ổn định nhiễm sắc thể. Hơn nữa, môi trường nang noãn ở phụ nữ vô sinh bị LNMTC cho thấy khả năng chống oxy hóa thấp và stress oxy hóa cao. Trình tự RNA của noãn ở bệnh nhân LNMTC buồng trứng và phụ nữ bình thường có những đặc điểm phiên mã khác biệt liên quan đến chất lượng noãn thấp hơn. Các con đường bị ảnh hưởng bao gồm những con đường liên quan đến các quá trình sinh học quan trọng như chuyển hóa steroid, phản ứng với stress oxy hóa và điều hòa tăng trưởng tế bào.
Các bằng chứng lâm sàng về hình thái noãn đến kết quả sinh sản ở phụ nữ LNMTC trải qua IVF vẫn còn hạn chế. Mặc dù có bằng chứng cho thấy hình thái noãn mang bất thường hình thái có thể có tác động xấu đến tỷ lệ thụ tinh, nhưng hầu hết các nghiên cứu đều chỉ ra rằng không có sự khác biệt về tỷ lệ phôi phân chia, làm tổ hoặc mang thai lâm sàng sau IVF, vì vậy có thể thấy rằng một khi noãn được thụ tinh, cơ hội mang thai là như nhau ở phụ nữ có và không bị LNMTC.
- Chất lượng phôi ở phụ nữ LNMTC
Mặc dù bệnh nhân LNMTC thường có số lượng noãn và số lượng noãn trưởng thành thu được trong quá trình IVF thấp hơn so với nhóm vô sinh do vấn đề ống dẫn trứng và yếu tố đến từ nam giới, nhưng không có sự khác biệt về tỷ lệ phôi tốt, tỷ lệ mang thai lâm sàng hoặc tỷ lệ trẻ sinh khi so với hai nhóm vô sinh này.
- LNMTC và kết quả IVF
- Lựa chọn chiến lược điều trị
Dienogest là một progestin thế hệ mới, có tác động chọn lọc đối với thụ thể progesterone và gây hiệu ứng giảm estrogen. Tuy nhiên, khi nghiên cứu tác động của Dienogest lên chất lượng noãn và phôi ở bệnh nhân LNMTC đã cho thấy các kết quả khác nhau. Một nghiên cứu cho thấy bệnh nhân LNMTC sử dụng Dienogest có tỷ lệ mang thai (44,7% so với 16,7%) và tỷ lệ sinh con sống (36,8% so với 11,1%) cao hơn đáng kể so với nhóm không sử dụng. Nhiều nghiên cứu còn cho thấy, điều trị bằng Dienogest và GnRH agonist triptorelin sau phẫu thuật nội soi và trước khi kích thích buồng trứng trong IVF có thể thu được nhiều noãn và tỷ lệ phôi tốt cao hơn so với phụ nữ không điều trị. Tuy nhiên một vài nghiên cứu khác lại ghi nhận không có sự khác biệt nào giữa bệnh nhân được điều trị và không được điều trị với Dienogest.
Các phương pháp hỗ trợ điều trị khác cũng đang được phát triển hiện nay như sử dụng chất chống oxy hóa (vitamin C/E, N-acetyl cysteine,…), chất kháng viêm, chất ức chế tạo mạch, cho thấy những kết quả khả quan về chất lượng noãn, giảm các yếu tố ROS và viêm trong dịch nang. Tuy nhiên vẫn cần phải nghiên cứu thêm về sự hoạt động của các chất này đối với noãn và phôi.
Kết quả điều trị bằng phẫu thuật ở những bệnh nhân đã trải qua phẫu thuật điều trị LNMTC xâm nhiễm sâu trước IVF, so với những bệnh nhân đã trải qua IVF mà không phẫu thuật trước đó, cho thấy rằng phẫu thuật trước IVF có thể giúp cải thiện kết quả mang thai. Một nghiên cứu khác đã so sánh điều trị phẫu thuật đối với LNMTC kèm vô sinh giai đoạn I/II với phương pháp nội soi ở 661 phụ nữ đã từng thất bại IVF trước đó, cho thấy sự cải thiện nhỏ về tỷ lệ trẻ sinh sống (27,7% so với 20,6%) và có cải thiện đáng kể về tỷ lệ làm tổ, tỷ lệ mang thai so với trước khi điều trị.
- Kết luận và hướng đi trong tương lai
Nguồn: Latif S, Saridogan E. Endometriosis, Oocyte, and Embryo Quality. Journal of Clinical Medicine. 2023; 12(13):4186. https://doi.org/10.3390/jcm12134186
Các tin khác cùng chuyên mục:
Phân tích chuyển hóa của exosome cho thấy những thay đổi liên quan đến tuổi tác trong dịch nang buồng trứng - Ngày đăng: 05-03-2024
Mối liên quan giữa thời gian nuôi cấy phôi với nguy cơ trẻ sinh ra lớn so với tuổi thai (LGA) trong chu kỳ chuyển phôi đông lạnh - Ngày đăng: 05-03-2024
Hệ thống nuôi cấy phôi time-lapse được làm ẩm không cải thiện tỷ lệ thai diễn tiến: Một nghiên cứu hồi cứu áp dụng mô hình điểm xu hướng từ 496 chu kỳ ICSI điều trị lần đầu - Ngày đăng: 02-03-2024
Lệch bội ở noãn phụ nữ lớn tuổi: phân tích các nguyên nhân gây sai lệch trong giảm phân và sự tác động đến phát triển phôi - Ngày đăng: 27-02-2024
Mối liên quan giữa tình trạng nhiễm khuẩn của catheter với kết quả thai kỳ sau chuyển phôi - Ngày đăng: 21-02-2024
Lạc nội mạc tử cung chẩn đoán dưới siêu âm có liên quan đến tỉ lệ trẻ sinh sống thấp ở phụ nữ điều trị thụ tinh trong ống nghiệm lần đầu tiên - Ngày đăng: 21-02-2024
Đánh giá mối quan hệ giữa đột biến dòng mầm và dị tật tim bẩm sinh ở trẻ em sinh ra từ công nghệ hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 20-02-2024
Chất lượng không khí không tốt thứ phát sau cháy rừng liên quan đến tỉ lệ tạo phôi nang thấp - Ngày đăng: 20-02-2024
Nghiên cứu so sánh kết quả thai của hai phương pháp chọn lọc tinh trùng trong nhóm bệnh nhân không chọn lọc thực hiện IVF-ICSI - Ngày đăng: 01-02-2024
Ảnh hưởng của nhiễm HBV ở nam giới đến chất lượng tinh trùng, sự phát triển của phôi và kết quả hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 28-01-2024
Tình hình sử dụng noãn trữ lạnh ở bệnh nhân đáp ứng buồng trứng kém sau khi trữ noãn chủ động - Ngày đăng: 28-01-2024
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK