Tin tức
on Wednesday 21-02-2024 10:29pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Nông Thị Hoài
Bệnh viện Đại học Y Dược Buôn Ma Thuột
Các giai đoạn khác nhau trong quá trình điều trị hỗ trợ sinh sản dễ bị nhiễm bởi các vi sinh vật khác nhau, đặc biệt là vi rút. Có nhiều yếu tố mang lại hiệu quả thành công trong điều trị vô sinh bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) và tiêm tinh trùng vào bào tương noãn, có thể kể đến như tuổi tác, độ dày nội mạc tử cung và thời gian vô sinh. Ngoài ra, một trong những yếu tố quan trọng nhất là điều kiện phòng thí nghiệm nuôi cấy phôi. Trên thực tế, ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy rằng nhiễm khuẩn trong tử cung sau khi chuyển phôi có thể ảnh hưởng tiêu cực đến tỷ lệ làm tổ và tỷ lệ mang thai. Sự nhiễm khuẩn này có thể xảy ra trong quá trình chuyển phôi thông qua catheter bởi nhiều loại vi sinh vật âm đạo và tử cung. Các nghiên cứu lâm sàng đã chỉ ra rằng catheter chuyển phôi bị nhiễm khuẩn có ảnh hưởng xấu đáng kể đến tỷ lệ mang thai lâm sàng.
Mục đích của nghiên cứu này để điều tra mối quan hệ giữa nhiễm vi khuẩn trong catheter và kết quả mang thai sau khi chuyển phôi.
Nghiên cứu đoàn hệ này được thực hiện trên 60 bệnh nhân được điều trị hỗ trợ sinh sản và chuyển phôi từ năm 2021 đến năm 2022. Sự nhiễm khuẩn catheter được kiểm tra ngay sau khi thực hiện chuyển phôi xong bằng phương pháp nuôi cấy vi sinh vật và trong trường hợp vi sinh vật âm tính, phương pháp PCR được thực hiện để xác nhận kết quả. Dữ liệu được phân tích bằng STATA 17 để xác định tác động sự nhiễm khuẩn catheter đến tỷ lệ mang thai lâm sàng.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong số 60 mẫu, có 15 mẫu dương tính với vi sinh. Trong đó Streptococcaceae được tìm thấy trong 5 mẫu (33,33%), Micrococcaceae được tìm thấy trong 3 mẫu (20%) và Enterobacteriaceae được tìm thấy trong 7 mẫu (46,67%). Độ tuổi trung bình của những người có kết quả cấy vi sinh dương tính thấp hơn đáng kể so với những người có kết quả cấy vi sinh âm tính (P < 0,05). Những người có thời gian vô sinh ngắn hơn có kết quả nuôi cấy vi khuẩn dương tính cao hơn những người có thời gian vô sinh dài (P < 0,05). Không có mối liên hệ đáng kể giữa chiều cao, cân nặng, nồng độ FSH và độ dày nội mạc tử cung giữa những người có kết quả nuôi cấy vi khuẩn dương tính hoặc âm tính. Kết quả còn cho thấy những người sống ở nông thôn có kết quả dương tính với vi sinh cao hơn những người sống ở thành phố (P < 0,05). Trong nghiên cứu này hầu hết các trường hợp dương tính đều liên quan đến vi khuẩn thuộc họ Enterobacteriaceae. Tuy nhiên, không có mối quan hệ đáng kể giữa loại vi khuẩn và kết quả mang thai thất bại. Kết quả của nghiên cứu cho thấy rằng catheter bị nhiễm vi sinh không ảnh hưởng đến kết quả mang thai.
Tất cả các trung tâm điều trị vô sinh đều nhận thức được tầm quan trọng của môi trường phòng nuôi cấy phôi nên hiếm khi xảy ra tình trạng nhiễm vi sinh. Tuy nhiên, việc catheter bị nhiễm vi sinh là điều khó tránh khỏi. Cho đến hiện tại có nhiều nghiên cứu khác nhau, trong đó một số nghiên cứu cho thấy catheter bị nhiễm vi sinh có ảnh hưởng đến kết quả thai kỳ và trong một số nghiên cứu khác thì không tìm thấy mối liên quan. Kết quả của nghiên cứu hiện tại cho thấy catheter bị nhiễm vi sinh không ảnh hưởng đến kết quả mang thai.
Nguồn: Masomeh Rezaie, Mohammad Jafar Rezaie, Fariba Seyedoshohadaie, Azra Alahvaisi, Khalil Azizian, Bijan Nouri và Samira Babaneghad Gajoti, 2023. “The relationship between microbial contaminations of embryo transfer catheters with pregnancy outcome after embryo transfer”.
Bệnh viện Đại học Y Dược Buôn Ma Thuột
Các giai đoạn khác nhau trong quá trình điều trị hỗ trợ sinh sản dễ bị nhiễm bởi các vi sinh vật khác nhau, đặc biệt là vi rút. Có nhiều yếu tố mang lại hiệu quả thành công trong điều trị vô sinh bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) và tiêm tinh trùng vào bào tương noãn, có thể kể đến như tuổi tác, độ dày nội mạc tử cung và thời gian vô sinh. Ngoài ra, một trong những yếu tố quan trọng nhất là điều kiện phòng thí nghiệm nuôi cấy phôi. Trên thực tế, ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy rằng nhiễm khuẩn trong tử cung sau khi chuyển phôi có thể ảnh hưởng tiêu cực đến tỷ lệ làm tổ và tỷ lệ mang thai. Sự nhiễm khuẩn này có thể xảy ra trong quá trình chuyển phôi thông qua catheter bởi nhiều loại vi sinh vật âm đạo và tử cung. Các nghiên cứu lâm sàng đã chỉ ra rằng catheter chuyển phôi bị nhiễm khuẩn có ảnh hưởng xấu đáng kể đến tỷ lệ mang thai lâm sàng.
Mục đích của nghiên cứu này để điều tra mối quan hệ giữa nhiễm vi khuẩn trong catheter và kết quả mang thai sau khi chuyển phôi.
Nghiên cứu đoàn hệ này được thực hiện trên 60 bệnh nhân được điều trị hỗ trợ sinh sản và chuyển phôi từ năm 2021 đến năm 2022. Sự nhiễm khuẩn catheter được kiểm tra ngay sau khi thực hiện chuyển phôi xong bằng phương pháp nuôi cấy vi sinh vật và trong trường hợp vi sinh vật âm tính, phương pháp PCR được thực hiện để xác nhận kết quả. Dữ liệu được phân tích bằng STATA 17 để xác định tác động sự nhiễm khuẩn catheter đến tỷ lệ mang thai lâm sàng.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong số 60 mẫu, có 15 mẫu dương tính với vi sinh. Trong đó Streptococcaceae được tìm thấy trong 5 mẫu (33,33%), Micrococcaceae được tìm thấy trong 3 mẫu (20%) và Enterobacteriaceae được tìm thấy trong 7 mẫu (46,67%). Độ tuổi trung bình của những người có kết quả cấy vi sinh dương tính thấp hơn đáng kể so với những người có kết quả cấy vi sinh âm tính (P < 0,05). Những người có thời gian vô sinh ngắn hơn có kết quả nuôi cấy vi khuẩn dương tính cao hơn những người có thời gian vô sinh dài (P < 0,05). Không có mối liên hệ đáng kể giữa chiều cao, cân nặng, nồng độ FSH và độ dày nội mạc tử cung giữa những người có kết quả nuôi cấy vi khuẩn dương tính hoặc âm tính. Kết quả còn cho thấy những người sống ở nông thôn có kết quả dương tính với vi sinh cao hơn những người sống ở thành phố (P < 0,05). Trong nghiên cứu này hầu hết các trường hợp dương tính đều liên quan đến vi khuẩn thuộc họ Enterobacteriaceae. Tuy nhiên, không có mối quan hệ đáng kể giữa loại vi khuẩn và kết quả mang thai thất bại. Kết quả của nghiên cứu cho thấy rằng catheter bị nhiễm vi sinh không ảnh hưởng đến kết quả mang thai.
Tất cả các trung tâm điều trị vô sinh đều nhận thức được tầm quan trọng của môi trường phòng nuôi cấy phôi nên hiếm khi xảy ra tình trạng nhiễm vi sinh. Tuy nhiên, việc catheter bị nhiễm vi sinh là điều khó tránh khỏi. Cho đến hiện tại có nhiều nghiên cứu khác nhau, trong đó một số nghiên cứu cho thấy catheter bị nhiễm vi sinh có ảnh hưởng đến kết quả thai kỳ và trong một số nghiên cứu khác thì không tìm thấy mối liên quan. Kết quả của nghiên cứu hiện tại cho thấy catheter bị nhiễm vi sinh không ảnh hưởng đến kết quả mang thai.
Nguồn: Masomeh Rezaie, Mohammad Jafar Rezaie, Fariba Seyedoshohadaie, Azra Alahvaisi, Khalil Azizian, Bijan Nouri và Samira Babaneghad Gajoti, 2023. “The relationship between microbial contaminations of embryo transfer catheters with pregnancy outcome after embryo transfer”.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Lạc nội mạc tử cung chẩn đoán dưới siêu âm có liên quan đến tỉ lệ trẻ sinh sống thấp ở phụ nữ điều trị thụ tinh trong ống nghiệm lần đầu tiên - Ngày đăng: 21-02-2024
Đánh giá mối quan hệ giữa đột biến dòng mầm và dị tật tim bẩm sinh ở trẻ em sinh ra từ công nghệ hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 20-02-2024
Chất lượng không khí không tốt thứ phát sau cháy rừng liên quan đến tỉ lệ tạo phôi nang thấp - Ngày đăng: 20-02-2024
Nghiên cứu so sánh kết quả thai của hai phương pháp chọn lọc tinh trùng trong nhóm bệnh nhân không chọn lọc thực hiện IVF-ICSI - Ngày đăng: 01-02-2024
Ảnh hưởng của nhiễm HBV ở nam giới đến chất lượng tinh trùng, sự phát triển của phôi và kết quả hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 28-01-2024
Tình hình sử dụng noãn trữ lạnh ở bệnh nhân đáp ứng buồng trứng kém sau khi trữ noãn chủ động - Ngày đăng: 28-01-2024
Béo phì, mang song thai và vai trò của công nghệ hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 28-01-2024
Nội mạc tử cung dày liên quan đến rối loạn tăng huyết áp thai kỳ ở những chu kỳ chuyển phôi đông lạnh nhân tạo: một phân tích hồi cứu trên 2.275 ca sinh đơn - Ngày đăng: 27-01-2024
Thời điểm thực hiện ICSI dựa trên trạng thái của thoi vô sắc - Ngày đăng: 27-01-2024
Tác dụng sinh học và lâm sàng của việc bổ sung vitamin tổng hợp gốc resveratrol đối với chu kì tiêm tinh trùng vào bào tương noãn: Một thử nghiệm ngẫu nhiên, có nhóm chứng - Ngày đăng: 15-01-2024
Hình thái phôi và tỷ lệ trẻ sinh sống ở Mỹ - Ngày đăng: 15-01-2024
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK