Tin tức
on Monday 15-01-2024 8:40am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Liên Mỹ Dinh – IVFMD SIH – Bệnh viện Phụ sản Quốc tế Sài Gòn
Giới thiệu
Khả năng sinh sản giảm dần theo tuổi tác và độ tuổi mong con ở cả nam và nữ ngày càng lớn làm cho nhu cầu hỗ trợ sinh sản (HTSS) không ngừng gia tăng trong những năm gần đây. Một trong những nguyên nhân gây vô sinh có thể kể đến là bất thường nhiễm sắc thể (NST). Bất thường NST phụ thuộc vào các yếu tố như: sợi trục mất ổn định, rút ngắn telomere và rối loạn chức năng ty thể. Năng lượng sản xuất cung cấp cho các hoạt động của noãn chủ yếu là bởi ty thể. Tế bào noãn có số lượng ty thể và bản sao DNA ty thể (mtDNA) lớn nhất trong tất cả các tế bào của cơ thể. Sự lão hoá và thụ tinh thất bại thường liên quan đến việc mất chức năng ty thể, chủ yếu là do sự đột biến và mất mtDNA. Việc sản xuất Adenosine Triphosphate (ATP) ở nang trứng bị suy giảm ở phụ nữ lớn tuổi và hàm lượng ATP đã được chứng minh có tương quan với tiềm năng làm tổ của phôi. Song song đó, tế bào hạt (Granulosa cell - GC) cũng có vai trò quan trọng trong việc điều hòa sự phát triển của buồng trứng.
Trong một nghiên cứu gần đây, resveratrol, một hợp chất polyphenolic tự nhiên, được phát hiện trong nhiều loại của thực vật, thực phẩm và đồ uống như nho, các loại hạt, quả nam việt quất và rượu vang đỏ, đã được chứng minh có tác dụng kích thích số lượng ty thể trong GC và tăng mức ATP nội bào. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự phát triển của noãn phụ thuộc nhiều vào tương tác phân tử với các tế bào sinh dưỡng, cung cấp chất dinh dưỡng cho noãn duy trì hoạt động trao đổi chất cơ bản và báo hiệu điều hoà sự biệt hoá tế bào noãn. Vì vậy, resveratrol có thể cải thiện chức năng buồng trứng và phát triển tế bào trứng thông qua chuyển hóa năng lượng chéo giữa các GC và noãn, mở ra khả năng điều trị cho phụ nữ vô sinh thực hiện HTSS. Các báo cáo cũng chỉ ra rằng việc bổ sung vitamin tổng hợp resveratrol giúp tăng các thông số tinh trùng ở nam giới vô sinh không rõ nguyên nhân. Resveratrol có rất nhiều lợi ích đối với con người, bao gồm chống lão hóa, chống oxy hóa, chống viêm, nhạy cảm với insulin, bảo vệ tim mạch, giãn mạch. Bằng chứng mới nổi quan trọng về sinh sản của con người chỉ ra rằng resveratrol có tác dụng ở phụ nữ lớn tuổi, PCOS, lạc nội mạc tử cung và u xơ tử cung. Tuy nhiên, các nghiên cứu trước đây cho thấy ảnh hưởng tiêu cực của resveratrol đến kết quả tỷ lệ thai lâm sàng giảm trong chu kỳ ET hoặc FET. Vì thế, xem xét thời gian bán hủy của resveratrol là 9–10 giờ, chỉ cần sử dụng resveratrol trước và trong quá trình kích thích buồng trứng là đủ và ngừng sử dụng vào ngày lấy tế bào trứng để tránh tác dụng phụ lên nội mạc tử cung. Vì vậy, mục tiêu của bài nghiên cứu này là nghiên cứu tác động của resveratrol đối với tế bào trứng, phôi và kết quả lâm sàng (sự trưởng thành của noãn, sự thụ tinh và phát triển phôi) trong quá trình HTSS.
Vật liệu và phương pháp
Đây là nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đơn, có nhóm chứng, đơn trung tâm. Những BN từ 18-42 tuổi, BMI 18-30 kg/m2 được chẩn đoán vô sinh, chức năng tuyến giáp và các thông số máu bình thường, buồng tử cung bình thường sẽ được tham gia vào nghiên cứu. Các trường hợp BN có tiền sử vô sinh do yếu tố nam nặng, suy buồng trứng nguyên phát hoặc thứ phát hoặc tuổi mẹ cao (> 40 tuổi), có tiền sử đáp ứng buồng trứng kém (3 noãn với phác đồ kích thích buồng trứng tiêu chuẩn), xét nghiệm dự trữ buồng trứng bất thường; hoặc các tình huống khác không phù hợp để kích thích buồng trứng, sẽ bị loại khỏi nghiên cứu.
Tất cả BN được chọn ngẫu nhiên để chia thành 2 nhóm là nhóm đối chứng (nhóm chứng) và nhóm điều trị bằng resveratrol (nhóm nghiên cứu) theo tỷ lệ 1:1, qua phong bì dán kín với các số ngẫu nhiên được tạo ra bởi máy tính. Những người tham gia sẽ biết mình thuộc nhóm nào. Các bác sĩ và chuyên viên phôi học tham gia vào việc chọc hút trứng và chuyển phôi không biết nhóm của BN mình điều trị.
Axit folic 400 mg/ngày được cung cấp bằng đường uống cho các BN trong nhóm chứng. Nhóm nghiên cứu nhận được một loại dược phẩm dinh dưỡng (2 viên mỗi ngày) chứa resveratrol bền vững, axit folic (400 mcg), vitamin D (25 mcg), vitamin B12 (2,5 mcg) và vitamin B6 (1,4 mg). Cả hai phương pháp điều trị đều được bắt đầu 3 tháng trước khi kích thích buồng trứng để thực hiện ICSI và được duy trì cho đến ngày chọc hút trứng.
Kết quả
Có 111 BN được đưa vào nghiên cứu, tuy nhiên sau quá trình sàng lọc còn 99 BN đủ tiêu chuẩn nghiên cứu và được phân tích số liệu, trong đó nhóm resveratrol có 49 BN và nhóm chứng có 50 BN. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về đặc điểm chung (tuổi, BMI, AMH, AFC) cũng như quy trình kích thích buồng trứng giữa 2 nhóm.
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về số ngày kích thích buồng trứng và tổng liều lượng gonadotropin được sử dụng trong phác đồ kích thích buồng trứng giữa nhóm nghiên cứu và nhóm chứng. Khi kết thúc điều trị nội tiết, số lượng nang trứng cao hơn được thấy ở nhóm nghiên cứu (p = 0,13), với sự tăng đáng kể số noãn thu được (p = 0,03) và số noãn MII (p = 0,04) ở nhóm nghiên cứu so với nhóm chứng. Tỷ lệ thụ tinh cao hơn (p = 0,004), số lượng phôi phân chia, phôi nang nhiều hơn đáng kể (p = 0,01), nhiều phôi được trữ đông hơn (p = 0,03) ở BN trong nhóm nghiên cứu so với nhóm chứng. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ làm tổ, thai sinh hóa, thai lâm sàng, tỷ lệ trẻ sinh sống và tỷ lệ sẩy thai giữa 2 nhóm. Không có tác dụng phụ bất lợi hoặc OHSS nghiêm trọng nào được quan sát thấy ở bất kỳ BN nào trong hai nhóm, nhưng có xu hướng giảm việc trì hoãn chuyển phôi (do chiến lược “trữ phôi toàn bộ” để ngừa OHSS) (2,6% so với 10,6%) được quan sát thấy ở nhóm nghiên cứu.
Kết luận
Việc điều trị bằng vitamin tổng hợp bổ sung resveratrol ở BN vô sinh trước và trong khi kích thích buồng trứng cho chu kỳ ICSI, dường như hứa hẹn cải thiện các mô hình sinh học liên quan đến lão hoá buồng trứng bằng cách tăng cường chất lượng tế bào trứng và phôi. Nghiên cứu này cho thấy không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ mang thai lâm sàng và thai sinh hoá khi bổ sung vitamin tổng hợp gốc resveratrol. Tuy nhiên, số lượng phôi được bảo quản lạnh cao hơn đáng kể trong nhóm nghiên cứu và điều này có thể dự đoán tỷ lệ thai tích luỹ từ phôi đông lạnh sẽ cao hơn. Đây là thử nghiêm lâm sàng ngẫu nhiên đầu tiên và các nghiên cứu sâu hơn có thể góp phần cũng cố những kết luận này.
Nguồn: Gerli S, Della Morte C, Ceccobelli M, Mariani M, Favilli A, Leonardi L, Lanti A, Iannitti RG, Fioretti B. Biological and clinical effects of a resveratrol-based multivitamin supplement on intracytoplasmic sperm injection cycles: a single-center, randomized controlled trial. J Matern Fetal Neonatal Med. 2022 Dec;35(25):7640-7648. doi: 10.1080/14767058.2021.1958313. Epub 2021 Aug 1. PMID: 34338114.
Giới thiệu
Khả năng sinh sản giảm dần theo tuổi tác và độ tuổi mong con ở cả nam và nữ ngày càng lớn làm cho nhu cầu hỗ trợ sinh sản (HTSS) không ngừng gia tăng trong những năm gần đây. Một trong những nguyên nhân gây vô sinh có thể kể đến là bất thường nhiễm sắc thể (NST). Bất thường NST phụ thuộc vào các yếu tố như: sợi trục mất ổn định, rút ngắn telomere và rối loạn chức năng ty thể. Năng lượng sản xuất cung cấp cho các hoạt động của noãn chủ yếu là bởi ty thể. Tế bào noãn có số lượng ty thể và bản sao DNA ty thể (mtDNA) lớn nhất trong tất cả các tế bào của cơ thể. Sự lão hoá và thụ tinh thất bại thường liên quan đến việc mất chức năng ty thể, chủ yếu là do sự đột biến và mất mtDNA. Việc sản xuất Adenosine Triphosphate (ATP) ở nang trứng bị suy giảm ở phụ nữ lớn tuổi và hàm lượng ATP đã được chứng minh có tương quan với tiềm năng làm tổ của phôi. Song song đó, tế bào hạt (Granulosa cell - GC) cũng có vai trò quan trọng trong việc điều hòa sự phát triển của buồng trứng.
Trong một nghiên cứu gần đây, resveratrol, một hợp chất polyphenolic tự nhiên, được phát hiện trong nhiều loại của thực vật, thực phẩm và đồ uống như nho, các loại hạt, quả nam việt quất và rượu vang đỏ, đã được chứng minh có tác dụng kích thích số lượng ty thể trong GC và tăng mức ATP nội bào. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự phát triển của noãn phụ thuộc nhiều vào tương tác phân tử với các tế bào sinh dưỡng, cung cấp chất dinh dưỡng cho noãn duy trì hoạt động trao đổi chất cơ bản và báo hiệu điều hoà sự biệt hoá tế bào noãn. Vì vậy, resveratrol có thể cải thiện chức năng buồng trứng và phát triển tế bào trứng thông qua chuyển hóa năng lượng chéo giữa các GC và noãn, mở ra khả năng điều trị cho phụ nữ vô sinh thực hiện HTSS. Các báo cáo cũng chỉ ra rằng việc bổ sung vitamin tổng hợp resveratrol giúp tăng các thông số tinh trùng ở nam giới vô sinh không rõ nguyên nhân. Resveratrol có rất nhiều lợi ích đối với con người, bao gồm chống lão hóa, chống oxy hóa, chống viêm, nhạy cảm với insulin, bảo vệ tim mạch, giãn mạch. Bằng chứng mới nổi quan trọng về sinh sản của con người chỉ ra rằng resveratrol có tác dụng ở phụ nữ lớn tuổi, PCOS, lạc nội mạc tử cung và u xơ tử cung. Tuy nhiên, các nghiên cứu trước đây cho thấy ảnh hưởng tiêu cực của resveratrol đến kết quả tỷ lệ thai lâm sàng giảm trong chu kỳ ET hoặc FET. Vì thế, xem xét thời gian bán hủy của resveratrol là 9–10 giờ, chỉ cần sử dụng resveratrol trước và trong quá trình kích thích buồng trứng là đủ và ngừng sử dụng vào ngày lấy tế bào trứng để tránh tác dụng phụ lên nội mạc tử cung. Vì vậy, mục tiêu của bài nghiên cứu này là nghiên cứu tác động của resveratrol đối với tế bào trứng, phôi và kết quả lâm sàng (sự trưởng thành của noãn, sự thụ tinh và phát triển phôi) trong quá trình HTSS.
Vật liệu và phương pháp
Đây là nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đơn, có nhóm chứng, đơn trung tâm. Những BN từ 18-42 tuổi, BMI 18-30 kg/m2 được chẩn đoán vô sinh, chức năng tuyến giáp và các thông số máu bình thường, buồng tử cung bình thường sẽ được tham gia vào nghiên cứu. Các trường hợp BN có tiền sử vô sinh do yếu tố nam nặng, suy buồng trứng nguyên phát hoặc thứ phát hoặc tuổi mẹ cao (> 40 tuổi), có tiền sử đáp ứng buồng trứng kém (3 noãn với phác đồ kích thích buồng trứng tiêu chuẩn), xét nghiệm dự trữ buồng trứng bất thường; hoặc các tình huống khác không phù hợp để kích thích buồng trứng, sẽ bị loại khỏi nghiên cứu.
Tất cả BN được chọn ngẫu nhiên để chia thành 2 nhóm là nhóm đối chứng (nhóm chứng) và nhóm điều trị bằng resveratrol (nhóm nghiên cứu) theo tỷ lệ 1:1, qua phong bì dán kín với các số ngẫu nhiên được tạo ra bởi máy tính. Những người tham gia sẽ biết mình thuộc nhóm nào. Các bác sĩ và chuyên viên phôi học tham gia vào việc chọc hút trứng và chuyển phôi không biết nhóm của BN mình điều trị.
Axit folic 400 mg/ngày được cung cấp bằng đường uống cho các BN trong nhóm chứng. Nhóm nghiên cứu nhận được một loại dược phẩm dinh dưỡng (2 viên mỗi ngày) chứa resveratrol bền vững, axit folic (400 mcg), vitamin D (25 mcg), vitamin B12 (2,5 mcg) và vitamin B6 (1,4 mg). Cả hai phương pháp điều trị đều được bắt đầu 3 tháng trước khi kích thích buồng trứng để thực hiện ICSI và được duy trì cho đến ngày chọc hút trứng.
Kết quả
Có 111 BN được đưa vào nghiên cứu, tuy nhiên sau quá trình sàng lọc còn 99 BN đủ tiêu chuẩn nghiên cứu và được phân tích số liệu, trong đó nhóm resveratrol có 49 BN và nhóm chứng có 50 BN. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về đặc điểm chung (tuổi, BMI, AMH, AFC) cũng như quy trình kích thích buồng trứng giữa 2 nhóm.
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về số ngày kích thích buồng trứng và tổng liều lượng gonadotropin được sử dụng trong phác đồ kích thích buồng trứng giữa nhóm nghiên cứu và nhóm chứng. Khi kết thúc điều trị nội tiết, số lượng nang trứng cao hơn được thấy ở nhóm nghiên cứu (p = 0,13), với sự tăng đáng kể số noãn thu được (p = 0,03) và số noãn MII (p = 0,04) ở nhóm nghiên cứu so với nhóm chứng. Tỷ lệ thụ tinh cao hơn (p = 0,004), số lượng phôi phân chia, phôi nang nhiều hơn đáng kể (p = 0,01), nhiều phôi được trữ đông hơn (p = 0,03) ở BN trong nhóm nghiên cứu so với nhóm chứng. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ làm tổ, thai sinh hóa, thai lâm sàng, tỷ lệ trẻ sinh sống và tỷ lệ sẩy thai giữa 2 nhóm. Không có tác dụng phụ bất lợi hoặc OHSS nghiêm trọng nào được quan sát thấy ở bất kỳ BN nào trong hai nhóm, nhưng có xu hướng giảm việc trì hoãn chuyển phôi (do chiến lược “trữ phôi toàn bộ” để ngừa OHSS) (2,6% so với 10,6%) được quan sát thấy ở nhóm nghiên cứu.
Kết luận
Việc điều trị bằng vitamin tổng hợp bổ sung resveratrol ở BN vô sinh trước và trong khi kích thích buồng trứng cho chu kỳ ICSI, dường như hứa hẹn cải thiện các mô hình sinh học liên quan đến lão hoá buồng trứng bằng cách tăng cường chất lượng tế bào trứng và phôi. Nghiên cứu này cho thấy không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ mang thai lâm sàng và thai sinh hoá khi bổ sung vitamin tổng hợp gốc resveratrol. Tuy nhiên, số lượng phôi được bảo quản lạnh cao hơn đáng kể trong nhóm nghiên cứu và điều này có thể dự đoán tỷ lệ thai tích luỹ từ phôi đông lạnh sẽ cao hơn. Đây là thử nghiêm lâm sàng ngẫu nhiên đầu tiên và các nghiên cứu sâu hơn có thể góp phần cũng cố những kết luận này.
Nguồn: Gerli S, Della Morte C, Ceccobelli M, Mariani M, Favilli A, Leonardi L, Lanti A, Iannitti RG, Fioretti B. Biological and clinical effects of a resveratrol-based multivitamin supplement on intracytoplasmic sperm injection cycles: a single-center, randomized controlled trial. J Matern Fetal Neonatal Med. 2022 Dec;35(25):7640-7648. doi: 10.1080/14767058.2021.1958313. Epub 2021 Aug 1. PMID: 34338114.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Hình thái phôi và tỷ lệ trẻ sinh sống ở Mỹ - Ngày đăng: 15-01-2024
Sinh thiết lại phôi nang không nguyên bội và phân tích PGT-A các phôi này trên 2 nền tảng khác nhau - Ngày đăng: 09-01-2024
Kết quả thai sau chuyển phôi đông lạnh so với chuyển phôi tươi ở phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung: Một nghiên cứu hồi cứu - Ngày đăng: 03-01-2024
Nhiều thao tác trên phôi trong các chu kỳ PGT-A có thể dẫn đến kết quả lâm sàng kém hơn - Ngày đăng: 03-01-2024
Xét nghiệm di truyền tiền làm tổ phôi lệch bội (PGT-A) ở nhóm bệnh nhân ít phôi: lợi hay hại? - Ngày đăng: 03-01-2024
Xét nghiệm di truyền lệch bội tiền làm tổ không xâm lấn (niPGT-A) cho tỷ lệ thất bại khuyếch đại DNA cao và mối tương quan kém với kết quả sinh thiết tế bào lá nuôi phôi - Ngày đăng: 02-01-2024
Ảnh hưởng của hình thái, tốc độ phát triển phôi nang đến tỷ lệ nguyên bội và tỷ lệ trẻ sinh sống sau PGT-A ở các chu kỳ chuyển đơn phôi - Ngày đăng: 02-01-2024
Quan điểm hiện đại về đông lạnh noãn xã hội - Ngày đăng: 31-12-2023
Một tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp: kết cục lâm sàng của những trường hợp thất bại liên tiếp được thực hiện xét nghiệm di truyền tiền làm tổ - Ngày đăng: 31-12-2023
Ảnh hưởng của các yếu tố viêm đến kết quả IVF/ICSI ở bệnh nhân PCOS có BMI khác nhau - Ngày đăng: 31-12-2023
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK