Tin tức
on Thursday 01-02-2024 2:29pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Phạm Ngọc Thu Phương – IVF Mỹ Đức, Tân Bình
Giới thiệu
Vô sinh do yếu tố nam giới là một khía cạnh phổ biến. Khả năng sinh sản không chỉ được đánh giá bởi xét nghiệm tinh dịch đồ bình thường. Do đó, chất lượng tinh trùng có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của phôi thai. Sự hiểu biết đầy đủ về vô sinh nam và sự thành công của IVF chủ yếu được đưa ra nhờ phân tích tinh trùng và sử dụng mô hình kênh dẫn vi lưu (microfluidics) có thể loại bỏ tổn thương cơ học lên tinh trùng (trong bước ly tâm) do đặc điểm di động tiến về phía trước của tinh trùng được tận dụng. Phân lập tinh trùng trên chip microfluidics là một công cụ thay thế cho các phương pháp chuẩn bị tinh trùng trước đây. Kỹ thuật microfluidics có thể nhanh chóng phân lập các mẫu tinh trùng kém có khả năng di chuyển cao, tính toàn vẹn DNA cao và ít bất thường về hình thái. Xử lý tinh trùng bằng microfludics là một quy trình tách tinh trùng có khả năng di động cao từ mẫu tinh dịch ban đầu chưa được xử lý, mà không làm thay đổi các thông số của tinh trùng như khả năng di động, hình thái, tính toàn vẹn DNA và acrosome. Microfluidics hứa hẹn là kỹ thuật lựa chọn tinh trùng tốt hơn với chỉ số phân mảnh DNA thấp hơn.
Mục đích của nghiên cứu là so sánh hai nhóm: nhóm đối chứng gồm tinh trùng được phân lập từ phương pháp ly tâm thanng nồng độ và nhóm nghiên cứu gồm tinh trùng được phân lập từ chip microfluidics (ZyMot – chip kênh dẫn vi lưu). Kết cục chính của nghiên cứu là so sánh sự khác biệt giữa hai nhóm về tỷ lệ thụ tinh, số lượng và chất lượng phôi. Kết cục phụ là tỷ lệ có thai lâm sàng.
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu hồi cứu kéo dài 12 tháng gồm 119 cặp vợ chồng thuộc nhóm đối chứng và 120 cặp vợ chồng thuộc nhóm nghiên cứu, trong đó tuổi người vợ từ 21-40 tuổi và người chồng từ 21-45 tuổi. Các bệnh nhân ở cả hai nhóm đều được thực hiện quy trình kích thích buồng trứng và kích hoạt HCG (human chorionic gonadotropin), sau đó chọc hút trứng ở thời điểm 34–36 giờ. Tế bào Cumulus được loại bỏ sau 3 giờ thu nhận và noãn trưởng thành được thực hiện ICSI.
Với nhóm nghiên cứu, chip ZyMot được sử dụng một lần duy nhất. ZyMot chứa năm kênh riêng lẻ với dung lượng 2 μL mỗi kênh. Môi trường rửa được nạp vào trước khi sử dụng và 2 μL tinh dịch đã ly giải được nạp vào mỗi kênh. Kích thước của vi kênh cho phép lựa chọn tinh trùng di động.
Thụ tinh được đánh giá vào lúc 18 giờ khi có sự hiện diện của hai thể cực. Vào ngày thứ 5, phôi được phân loại theo tiêu chí Gardner. Chuyển phôi có thể thực hiện bằng chuyển phôi tươi hoặc phôi đông lạnh.
Kết quả
Độ tuổi trung bình trong nhóm đối chứng là 35,62±4,495 và 34,08±4,923 trong nhóm nghiên cứu. Số lượng noãn thu thập được là tương tự nhau ở hai nhóm (p=0,1282). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê được ghi nhận về tổng số phôi nang thu được ở hai nhóm (2,66±1,71 ở nhóm nghiên cứu so với 1,63±0,15 ở nhóm đối chứng) (p=0,0462).
Không giống như các tham số khác, mật độ tinh trùng sau phân lập ở nhóm nghiên cứu thấp hơn có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê so với nhóm đối chứng (p=0,002). Tuy nhiên, tỷ lệ tinh trùng di động (loại A và B) ở nhóm nghiên cứu cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng (p < 0,05), cho thấy việc điều trị vô sinh có thể thành công ở nhóm nghiên cứu do khả năng di động của tinh trùng dường như là thông số tốt ở nam giới để dự đoán tỷ lệ thụ tinh trong IVF. Chọn lọc tinh trùng dựa trên kênh dẫn vi lưu có ưu điểm là phân lập tinh trùng có stress oxy hóa thấp, hình thái tốt, chỉ số phân mảnh DNA thấp và có thể tạo ra số lượng phôi cao hơn.
Về tỷ lệ thụ tinh, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê được ghi nhận, với 80,13% ở nhóm nghiên cứu so với 79,79% ở nhóm đối chứng. Tuy nhiên, giá trị p về tỷ lệ mang thai ở hai nhóm được coi là khá có ý nghĩa thống kê (tỷ lệ 51±45,8 ở nhóm nghiên cứu so với tỷ lệ 40,2±42,87 ở nhóm đối chứng) (p=0,049), chứng tỏ tỷ lệ mang thai cao hơn ở nhóm nghiên cứu. Điều này cũng có thể bị ảnh hưởng bởi phôi chất lượng cao hơn, nhưng vẫn cần nghiên cứu thêm.
Bàn luận
Một hạn chế lớn của nghiên cứu ở thời điểm hiện tại chính là không đủ dữ liệu về hiệu quả của kỹ thuật microfluidics trong IVF và cần thực hiện các nghiên cứu trên cỡ mẫu lớn hơn. Tỷ lệ thụ tinh là tương tự giữa các nhóm, với tỷ lệ mang thai cao hơn một chút ở nhóm nghiên cứu. Việc lựa chọn tinh trùng bằng kênh dẫn vi lưu cho số lượng phôi chất lượng cao hơn được sử dụng trong các chu kỳ chuyển phôi đông lạnh và tạo ra tỷ lệ mang thai tích lũy cao hơn.
Kỹ thuật phân lập tinh trùng bằng kênh dẫn vi lưu là nghiên cứu quan trọng trong lĩnh vực vô sinh nam.
Kết luận
Chip microfluidics thương mại ZyMot trong IVF có thể được sử dụng nhằm cải thiện một chút số lượng phôi nang chất lượng tốt và tỷ lệ mang thai so với phương pháp lọc rửa tinh trùng bằng ly tâm thang nồng độ.
TLTK: Zaha, I., Naghi, P., Stefan, L., Bunescu, C., Radu, M., Muresan, M. E., Sandor, M., Sachelarie, L., & Huniadi, A. (2023). Comparative Study of Sperm Selection Techniques for Pregnancy Rates in an Unselected IVF–ICSI Population. Journal of Personalized Medicine, 13(4), 619. https://doi.org/10.3390/jpm13040619
Giới thiệu
Vô sinh do yếu tố nam giới là một khía cạnh phổ biến. Khả năng sinh sản không chỉ được đánh giá bởi xét nghiệm tinh dịch đồ bình thường. Do đó, chất lượng tinh trùng có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của phôi thai. Sự hiểu biết đầy đủ về vô sinh nam và sự thành công của IVF chủ yếu được đưa ra nhờ phân tích tinh trùng và sử dụng mô hình kênh dẫn vi lưu (microfluidics) có thể loại bỏ tổn thương cơ học lên tinh trùng (trong bước ly tâm) do đặc điểm di động tiến về phía trước của tinh trùng được tận dụng. Phân lập tinh trùng trên chip microfluidics là một công cụ thay thế cho các phương pháp chuẩn bị tinh trùng trước đây. Kỹ thuật microfluidics có thể nhanh chóng phân lập các mẫu tinh trùng kém có khả năng di chuyển cao, tính toàn vẹn DNA cao và ít bất thường về hình thái. Xử lý tinh trùng bằng microfludics là một quy trình tách tinh trùng có khả năng di động cao từ mẫu tinh dịch ban đầu chưa được xử lý, mà không làm thay đổi các thông số của tinh trùng như khả năng di động, hình thái, tính toàn vẹn DNA và acrosome. Microfluidics hứa hẹn là kỹ thuật lựa chọn tinh trùng tốt hơn với chỉ số phân mảnh DNA thấp hơn.
Mục đích của nghiên cứu là so sánh hai nhóm: nhóm đối chứng gồm tinh trùng được phân lập từ phương pháp ly tâm thanng nồng độ và nhóm nghiên cứu gồm tinh trùng được phân lập từ chip microfluidics (ZyMot – chip kênh dẫn vi lưu). Kết cục chính của nghiên cứu là so sánh sự khác biệt giữa hai nhóm về tỷ lệ thụ tinh, số lượng và chất lượng phôi. Kết cục phụ là tỷ lệ có thai lâm sàng.
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu hồi cứu kéo dài 12 tháng gồm 119 cặp vợ chồng thuộc nhóm đối chứng và 120 cặp vợ chồng thuộc nhóm nghiên cứu, trong đó tuổi người vợ từ 21-40 tuổi và người chồng từ 21-45 tuổi. Các bệnh nhân ở cả hai nhóm đều được thực hiện quy trình kích thích buồng trứng và kích hoạt HCG (human chorionic gonadotropin), sau đó chọc hút trứng ở thời điểm 34–36 giờ. Tế bào Cumulus được loại bỏ sau 3 giờ thu nhận và noãn trưởng thành được thực hiện ICSI.
Với nhóm nghiên cứu, chip ZyMot được sử dụng một lần duy nhất. ZyMot chứa năm kênh riêng lẻ với dung lượng 2 μL mỗi kênh. Môi trường rửa được nạp vào trước khi sử dụng và 2 μL tinh dịch đã ly giải được nạp vào mỗi kênh. Kích thước của vi kênh cho phép lựa chọn tinh trùng di động.
Thụ tinh được đánh giá vào lúc 18 giờ khi có sự hiện diện của hai thể cực. Vào ngày thứ 5, phôi được phân loại theo tiêu chí Gardner. Chuyển phôi có thể thực hiện bằng chuyển phôi tươi hoặc phôi đông lạnh.
Kết quả
Độ tuổi trung bình trong nhóm đối chứng là 35,62±4,495 và 34,08±4,923 trong nhóm nghiên cứu. Số lượng noãn thu thập được là tương tự nhau ở hai nhóm (p=0,1282). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê được ghi nhận về tổng số phôi nang thu được ở hai nhóm (2,66±1,71 ở nhóm nghiên cứu so với 1,63±0,15 ở nhóm đối chứng) (p=0,0462).
Không giống như các tham số khác, mật độ tinh trùng sau phân lập ở nhóm nghiên cứu thấp hơn có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê so với nhóm đối chứng (p=0,002). Tuy nhiên, tỷ lệ tinh trùng di động (loại A và B) ở nhóm nghiên cứu cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng (p < 0,05), cho thấy việc điều trị vô sinh có thể thành công ở nhóm nghiên cứu do khả năng di động của tinh trùng dường như là thông số tốt ở nam giới để dự đoán tỷ lệ thụ tinh trong IVF. Chọn lọc tinh trùng dựa trên kênh dẫn vi lưu có ưu điểm là phân lập tinh trùng có stress oxy hóa thấp, hình thái tốt, chỉ số phân mảnh DNA thấp và có thể tạo ra số lượng phôi cao hơn.
Về tỷ lệ thụ tinh, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê được ghi nhận, với 80,13% ở nhóm nghiên cứu so với 79,79% ở nhóm đối chứng. Tuy nhiên, giá trị p về tỷ lệ mang thai ở hai nhóm được coi là khá có ý nghĩa thống kê (tỷ lệ 51±45,8 ở nhóm nghiên cứu so với tỷ lệ 40,2±42,87 ở nhóm đối chứng) (p=0,049), chứng tỏ tỷ lệ mang thai cao hơn ở nhóm nghiên cứu. Điều này cũng có thể bị ảnh hưởng bởi phôi chất lượng cao hơn, nhưng vẫn cần nghiên cứu thêm.
Bàn luận
Một hạn chế lớn của nghiên cứu ở thời điểm hiện tại chính là không đủ dữ liệu về hiệu quả của kỹ thuật microfluidics trong IVF và cần thực hiện các nghiên cứu trên cỡ mẫu lớn hơn. Tỷ lệ thụ tinh là tương tự giữa các nhóm, với tỷ lệ mang thai cao hơn một chút ở nhóm nghiên cứu. Việc lựa chọn tinh trùng bằng kênh dẫn vi lưu cho số lượng phôi chất lượng cao hơn được sử dụng trong các chu kỳ chuyển phôi đông lạnh và tạo ra tỷ lệ mang thai tích lũy cao hơn.
Kỹ thuật phân lập tinh trùng bằng kênh dẫn vi lưu là nghiên cứu quan trọng trong lĩnh vực vô sinh nam.
Kết luận
Chip microfluidics thương mại ZyMot trong IVF có thể được sử dụng nhằm cải thiện một chút số lượng phôi nang chất lượng tốt và tỷ lệ mang thai so với phương pháp lọc rửa tinh trùng bằng ly tâm thang nồng độ.
TLTK: Zaha, I., Naghi, P., Stefan, L., Bunescu, C., Radu, M., Muresan, M. E., Sandor, M., Sachelarie, L., & Huniadi, A. (2023). Comparative Study of Sperm Selection Techniques for Pregnancy Rates in an Unselected IVF–ICSI Population. Journal of Personalized Medicine, 13(4), 619. https://doi.org/10.3390/jpm13040619
Từ khóa: Tinh trùng, thụ tinh, phôi, thai
Các tin khác cùng chuyên mục:
Ảnh hưởng của nhiễm HBV ở nam giới đến chất lượng tinh trùng, sự phát triển của phôi và kết quả hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 28-01-2024
Tình hình sử dụng noãn trữ lạnh ở bệnh nhân đáp ứng buồng trứng kém sau khi trữ noãn chủ động - Ngày đăng: 28-01-2024
Béo phì, mang song thai và vai trò của công nghệ hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 28-01-2024
Nội mạc tử cung dày liên quan đến rối loạn tăng huyết áp thai kỳ ở những chu kỳ chuyển phôi đông lạnh nhân tạo: một phân tích hồi cứu trên 2.275 ca sinh đơn - Ngày đăng: 27-01-2024
Thời điểm thực hiện ICSI dựa trên trạng thái của thoi vô sắc - Ngày đăng: 27-01-2024
Tác dụng sinh học và lâm sàng của việc bổ sung vitamin tổng hợp gốc resveratrol đối với chu kì tiêm tinh trùng vào bào tương noãn: Một thử nghiệm ngẫu nhiên, có nhóm chứng - Ngày đăng: 15-01-2024
Hình thái phôi và tỷ lệ trẻ sinh sống ở Mỹ - Ngày đăng: 15-01-2024
Sinh thiết lại phôi nang không nguyên bội và phân tích PGT-A các phôi này trên 2 nền tảng khác nhau - Ngày đăng: 09-01-2024
Kết quả thai sau chuyển phôi đông lạnh so với chuyển phôi tươi ở phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung: Một nghiên cứu hồi cứu - Ngày đăng: 03-01-2024
Nhiều thao tác trên phôi trong các chu kỳ PGT-A có thể dẫn đến kết quả lâm sàng kém hơn - Ngày đăng: 03-01-2024
Xét nghiệm di truyền tiền làm tổ phôi lệch bội (PGT-A) ở nhóm bệnh nhân ít phôi: lợi hay hại? - Ngày đăng: 03-01-2024
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK