Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Wednesday 04-10-2023 12:15am
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Nguyễn Duy Khang – IVF Vạn Hạnh
 
  1. GIỚI THIỆU
Sau thụ tinh và trong suốt quá trình phát triển của phôi, từ một tế bào, phôi trải qua một loạt quá trình phân chia từ hai tế bào lên đến hơn tám tế bào. Tại một thời điểm nhất định, phôi bào bắt đầu hình thành các liên kết chặt và cầu nối liên bào được gọi là quá trình nén, cho phép sự giao tiếp giữa các tế bào. Ngược lại với quan điểm đã được chấp nhận trước đây rằng việc hoạt hóa bộ gen của phôi xảy ra trong quá trình nén, nhiều nghiên cứu gần đây đã chứng minh việc hoạt hóa bộ gen diễn ra thậm chí sớm hơn. Hai đợt sóng hoạt hóa bộ gen diễn ra vào giai đoạn 4 tế bào và 8-10 tế bào, với làn sóng cuối cùng được đặc trưng bởi mức độ hoạt động phiên mã cao nhất. Một nghiên cứu gần đây đã chứng minh quá trình nén có thể xảy ra sớm nhất ở giai đoạn 4 tế bào và muộn nhất ở giai đoạn 16 tế bào.
 
Camera quan sát liên tục (Time-lapse monitoring – TLM) cung cấp khả năng theo dõi liên tục sự phát triển của phôi trong khi vẫn duy trì điều kiện nuôi cấy ổn định. Qua đó, cung cấp cho chuyên viên phôi học thông tin về các thông số có thể tiên lượng tiềm năng phát triển và làm tổ của phôi. Tuy nhiên, phân tích TLM về giai đoạn nén và ảnh hưởng của giai đoạn này đến sự phát triển của phôi tiền làm tổ vẫn chưa được báo cáo. Nghiên cứu hiện tại nhằm mục đích khai thác TLM để phân tích toàn diện giai đoạn tế bào xảy ra quá trình nén nhằm đánh giá liệu số lượng phôi bào khi bắt đầu nén có ảnh hưởng gì đến sự phát triển của phôi.
 
  1. PHƯƠNG PHÁP
Đây là một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu bao gồm tất cả phôi của bệnh nhân ≤38 tuổi thực hiện điều trị thụ tinh ống nghiệm từ 01/2016 đến 12/2017 (815 phôi; 175 chu kỳ). Tiêu chí loại: bệnh nhân >38 tuổi, tinh trùng yếu và phôi được sinh thiết cho xét nghiệm di truyền tiền làm tổ. Kết cục thai và trẻ sinh sống của tất cả chuyển đơn phôi (379 phôi) được thực hiện từ 2017 – 2019 được ghi nhận. Dữ liệu phôi phân chia giai đoạn đang nén chỉ được ghi nhận từ phôi tươi.
 
  1. KẾT QUẢ
Phôi được chia thành ba nhóm: Nhóm 1 - phôi bắt đầu quá trình nén ở 5 - 7 tế bào (28 phôi; 3,4%), Nhóm 2 - bắt đầu quá trình nén ở 8 tế bào (98 phôi; 12%) và Nhóm 3 - bắt đầu quá trình nén ở >8 tế bào (689 phôi; 84,6%). Không có sự khác biệt thống kê giữa ba nhóm bệnh nhân về bất kỳ đặc điểm nhân khẩu học cơ bản nào. Tuổi trung bình của bệnh nhân là 34, trung bình lấy được 12 noãn trong mỗi chu kỳ. Tất cả thời gian phân chia (t2–t8) đều được chuẩn hóa theo thời gian mờ dần của các tiền nhân (tPNf).
 
Thời gian phân chia trong tất cả các giai đoạn phát triển ở Nhóm 3 sớm hơn đáng kể so với Nhóm 1 và Nhóm 2, và Nhóm 1 chậm hơn đáng kể so với Nhóm 2. Khi so sánh sự đồng bộ phôi giữa tất cả các nhóm nghiên cứu, phôi Nhóm 3 đồng bộ hơn đáng kể (tức là S2 và S3 ngắn hơn) so với phôi từ Nhóm 2 và 1, ở cả S2 (1,68 giờ so với 2,57 giờ và 4,26 giờ, P < 0,001) và S3 (8,84 giờ so với 12,76 giờ, Nhóm 3 so với 2, P  < 0,001).
 
Mối tương quan giữa chất lượng phôi nang và số lượng phôi bào bắt đầu quá trình nén: phôi nang chất lượng tốt có khả năng phát triển cao hơn đáng kể (46%) từ phôi Nhóm 3 so với phôi bắt đầu quá trình nén trước đó (36% và 21% từ Nhóm 2 và Nhóm 1 tương ứng, P  < 0,03). Phôi nang chất lượng tốt nhất giảm 73% khi so sánh phôi Nhóm 3 với phôi Nhóm 1 (P  < 0,01) và 44% khi so sánh phôi Nhóm 3 với Nhóm 2 (P  < 0,03). Thời gian bắt đầu hình thành phôi nang (tSB) xảy ra ở Nhóm 2 và 3 sớm hơn đáng kể so với Nhóm 1 (lần lượt là 79,1 giờ so với 75,7 giờ và 75,6 giờ, P  < 0,001).
 
Về kết quả lâm sàng, số lượng phôi bào bắt đầu nén càng nhiều thì cơ hội mang thai và trẻ sinh sống càng cao. Tỷ lệ có thai là 36,6% ở nhóm 3 và 30,5% ở nhóm 2, mặc dù xu hướng này chưa có ý nghĩa thống kê. Hơn nữa, tỷ lệ trẻ sinh sống ở Nhóm 3 cao hơn so với Nhóm 2 (18,5% so với 11,1%; P  > 0,05). Chỉ có 2 phôi nang (7%) từ Nhóm 1 đủ điều kiện trữ lạnh.
 
  1. BÀN LUẬN
Nghiên cứu cho thấy số lượng phôi bào bắt đầu quá trình nén ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng phôi nang và kết quả IVF. Phôi được nén từ hơn 8 phôi bào có tính đồng bộ cao hơn so với phôi được nén từ 8 phôi bào trở xuống. Việc nén ở 8 tế bào trở lên là điều cần thiết cho việc làm tổ.  
 
Việc đưa TLM vào labo IVF đã cải thiện rõ rệt điều kiện nuôi cấy và khả năng lựa chọn phôi để chuyển. Điều này cũng đã được thể hiện trước đây đối với những phôi có bất thường về nhiễm sắc thể, biểu hiện độ trễ đáng kể trong các thông số TLM. Nghiên cứu hiện tại cũng cho thấy phôi bắt đầu quá trình nén ở hơn 8 phôi bào có tỷ lệ phân mảnh thấp hơn so với phôi bắt đầu quá trình nén ở ít hơn 8 phôi bào, điều này có thể giải thích tại sao phôi nang bắt đầu quá trình nén từ hơn 8 tế bào lại có chất lượng tốt hơn. Hơn nữa, việc bắt đầu quá trình nén trước giai đoạn tám tế bào có liên quan đến sự phát triển phôi bất thường, được thể hiện qua tỷ lệ phôi bào đa nhân cao hơn. Sự phân chia trực tiếp và phân chia ngược cũng được chứng minh là có liên quan đến sự phát triển của phôi chất lượng kém. Do đó, có thể dẫn đến sự phát triển bị suy giảm, biểu hiện bằng việc bắt đầu quá trình nén từ ít tế bào hơn.
 
  1. KẾT LUẬN
Giai đoạn nén của phôi phân chia có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng phôi nang và có thể ảnh hưởng đến quá trình làm tổ và kết quả mang thai. Do đó, nghiên cứu đề xuất sử dụng giai đoạn nén như một công cụ lựa chọn phôi chất lượng tốt để chuyển.
 
Nguồn: Matot, R., Kalma, Y., Rahav, R., Azem, F., Amir, H., & Ben‐Yosef, D. (2023). Cleavage stage at compaction—a good predictor for IVF outcome. International Journal of Gynecology & Obstetrics161(3), 997-1003.
 

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK