Tin tức
on Thursday 21-09-2023 4:26pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Lê Thị Vân – IVF Vạn Hạnh
Nhóm bệnh nhân vô sinh không do yếu tố nam giới và thất bại chu kỳ IVF do chất lượng phôi kém thì nguyên nhân chủ yếu được cho là do chất lượng noãn. Điều này tiên lượng rằng bệnh nhân có khả năng sẽ tiếp tục bị phôi kém trong chu kỳ IVF sắp tới. Cho đến nay, chưa có cách nào hiệu quả để cải thiện chất lượng phôi. Nhưng nhiều nghiên cứu chứng minh rằng ICSI mang lại tỷ lệ phôi chất lượng tốt cao đáng kể. Do đó, ICSI có thể được ưu tiên cho nhóm bệnh nhân có phôi kém chất lượng ở chu kỳ IVF trước. Tuy nhiên, bằng chứng về hiệu quả của ICSI trong nhóm bệnh nhân này hiện đang thiếu. Chính vì vậy, nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả của phương pháp ICSI đối với chất lượng phôi ở những bệnh nhân vô sinh không phải do yếu tố nam có phôi kém trong chu kỳ IVF trước đó.
Phương pháp: Đây là nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu, dữ liệu được thu thập từ Trung tâm Y học sinh sản, Bệnh viện Phụ nữ và Trẻ em thuộc Đại học Y Trùng Khánh từ tháng 3/2016 đến tháng 6/2022. Phương pháp thụ tinh được quyết định bởi các bác sĩ và bệnh nhân theo thỏa thuận dựa trên tiền sử vô sinh trước đó. Tiêu chí nhận là những bệnh nhân có phôi chất lượng kém (phôi đánh giá hình thái loại D và không đề nghị chuyển) và vô sinh không do yếu tố nam. Các tiêu chí loại trừ bao gồm:
Tổng cộng có 336 cặp vợ chồng đã được đưa vào nghiên cứu này. ICSI được thực hiện trên 158 cặp vợ chồng và IVF được thực hiện trên 178 cặp vợ chồng. Các tỷ lệ thụ tinh 2PN, tỷ lệ phôi chất lượng tốt và tỷ lệ mang thai lâm sàng được so sánh giữa hai nhóm. Thụ tinh được đánh giá sau 18 giờ và sự phát triển phôi được đánh giá lần lượt vào ngày thứ 2 và thứ 3. Phân loại chất lượng phôi dựa trên sự đồng thuận Istanbul. Phôi chất lượng tốt (phôi xếp loại A) có nguồn gốc 2PN, 4 tế bào vào ngày thứ 2, hơn 6 tế bào vào ngày thứ 3, phôi bào có kích thước đều nhau và phân mảnh ≤10%. Các phôi chất lượng trung bình (phôi xếp loại B và C) có 2 nguồn gốc 2PN, hơn 6 tế bào và phân mảnh <30%. Những phôi chất lượng kém (phôi xếp loại D và khuyến cáo không nên chuyển) bao gồm tất cả phần còn lại. Một hoặc hai phôi tốt vào ngày thứ 3 được chuyển vào bệnh nhân và theo dõi kết quả lâm sàng.
Kết quả: Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về số lượng noãn thu được và số lượng noãn trưởng thành (MII) giữa hai nhóm. Tỷ lệ 2PN, tỷ lệ sử dụng noãn, tỷ lệ phôi được sử dụng và tỷ lệ hủy chu kỳ ở nhóm ICSI tương tự nhóm IVF. Tuy nhiên, tỷ lệ phôi chất lượng tốt ở nhóm ICSI cao hơn đáng kể so với nhóm IVF (5,56% so với 2,60%, p < 0,05). Tổng cộng 239 bệnh nhân đã thực hiện chuyển phôi. Nhóm ICSI có tỷ lệ thai lâm sàng cao hơn đáng kể so với IVF (55,56% so với 40,98%, p < 0,05). Ngoài ra, không có sự khác biệt đáng chú ý về tỷ lệ sẩy thai và tỷ lệ làm tổ giữa hai nhóm.
Tóm lại, nghiên cứu hiện tại cho thấy ICSI đã cải thiện đáng kể tỷ lệ phôi chất lượng tốt và thai kỳ lâm sàng ở những bệnh nhân có phôi chất lượng kém trong chu kỳ IVF trước đó. Cần có các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng trong tương lai để xác minh thêm kết quả nghiên cứu này.
Nguồn: Wang, Jiang, et al. "Should ICSI be implemented on patients with poor-quality embryos in the previous IVF cycle?." Heliyon 9.7 (2023).
Nhóm bệnh nhân vô sinh không do yếu tố nam giới và thất bại chu kỳ IVF do chất lượng phôi kém thì nguyên nhân chủ yếu được cho là do chất lượng noãn. Điều này tiên lượng rằng bệnh nhân có khả năng sẽ tiếp tục bị phôi kém trong chu kỳ IVF sắp tới. Cho đến nay, chưa có cách nào hiệu quả để cải thiện chất lượng phôi. Nhưng nhiều nghiên cứu chứng minh rằng ICSI mang lại tỷ lệ phôi chất lượng tốt cao đáng kể. Do đó, ICSI có thể được ưu tiên cho nhóm bệnh nhân có phôi kém chất lượng ở chu kỳ IVF trước. Tuy nhiên, bằng chứng về hiệu quả của ICSI trong nhóm bệnh nhân này hiện đang thiếu. Chính vì vậy, nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả của phương pháp ICSI đối với chất lượng phôi ở những bệnh nhân vô sinh không phải do yếu tố nam có phôi kém trong chu kỳ IVF trước đó.
Phương pháp: Đây là nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu, dữ liệu được thu thập từ Trung tâm Y học sinh sản, Bệnh viện Phụ nữ và Trẻ em thuộc Đại học Y Trùng Khánh từ tháng 3/2016 đến tháng 6/2022. Phương pháp thụ tinh được quyết định bởi các bác sĩ và bệnh nhân theo thỏa thuận dựa trên tiền sử vô sinh trước đó. Tiêu chí nhận là những bệnh nhân có phôi chất lượng kém (phôi đánh giá hình thái loại D và không đề nghị chuyển) và vô sinh không do yếu tố nam. Các tiêu chí loại trừ bao gồm:
- Thu nhận ít hơn 5 noãn sau chọc hút
- Noãn từ những người hiến tặng
- Tỷ lệ thụ tinh 2PN dưới 60%
- Bệnh nhân có phôi sinh thiết
Tổng cộng có 336 cặp vợ chồng đã được đưa vào nghiên cứu này. ICSI được thực hiện trên 158 cặp vợ chồng và IVF được thực hiện trên 178 cặp vợ chồng. Các tỷ lệ thụ tinh 2PN, tỷ lệ phôi chất lượng tốt và tỷ lệ mang thai lâm sàng được so sánh giữa hai nhóm. Thụ tinh được đánh giá sau 18 giờ và sự phát triển phôi được đánh giá lần lượt vào ngày thứ 2 và thứ 3. Phân loại chất lượng phôi dựa trên sự đồng thuận Istanbul. Phôi chất lượng tốt (phôi xếp loại A) có nguồn gốc 2PN, 4 tế bào vào ngày thứ 2, hơn 6 tế bào vào ngày thứ 3, phôi bào có kích thước đều nhau và phân mảnh ≤10%. Các phôi chất lượng trung bình (phôi xếp loại B và C) có 2 nguồn gốc 2PN, hơn 6 tế bào và phân mảnh <30%. Những phôi chất lượng kém (phôi xếp loại D và khuyến cáo không nên chuyển) bao gồm tất cả phần còn lại. Một hoặc hai phôi tốt vào ngày thứ 3 được chuyển vào bệnh nhân và theo dõi kết quả lâm sàng.
Kết quả: Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về số lượng noãn thu được và số lượng noãn trưởng thành (MII) giữa hai nhóm. Tỷ lệ 2PN, tỷ lệ sử dụng noãn, tỷ lệ phôi được sử dụng và tỷ lệ hủy chu kỳ ở nhóm ICSI tương tự nhóm IVF. Tuy nhiên, tỷ lệ phôi chất lượng tốt ở nhóm ICSI cao hơn đáng kể so với nhóm IVF (5,56% so với 2,60%, p < 0,05). Tổng cộng 239 bệnh nhân đã thực hiện chuyển phôi. Nhóm ICSI có tỷ lệ thai lâm sàng cao hơn đáng kể so với IVF (55,56% so với 40,98%, p < 0,05). Ngoài ra, không có sự khác biệt đáng chú ý về tỷ lệ sẩy thai và tỷ lệ làm tổ giữa hai nhóm.
Tóm lại, nghiên cứu hiện tại cho thấy ICSI đã cải thiện đáng kể tỷ lệ phôi chất lượng tốt và thai kỳ lâm sàng ở những bệnh nhân có phôi chất lượng kém trong chu kỳ IVF trước đó. Cần có các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng trong tương lai để xác minh thêm kết quả nghiên cứu này.
Nguồn: Wang, Jiang, et al. "Should ICSI be implemented on patients with poor-quality embryos in the previous IVF cycle?." Heliyon 9.7 (2023).
Các tin khác cùng chuyên mục:
Ảnh hưởng của noãn có chứa mạng lưới nội chất trơn (SER) đến kết quả hỗ trợ sinh sản: một nghiên cứu đoàn hệ - Ngày đăng: 21-09-2023
Tỷ lệ sinh sống trên mỗi lần chuyển phôi không bị ảnh hưởng bởi tỷ lệ xuất hiện lưới nội chất trơn (SER) trong quần thể noãn thu nhận - Ngày đăng: 21-09-2023
Mối tương quan giữa Vitamin D và kẽm trong huyết thanh với chất lượng tinh dịch của nam giới - Ngày đăng: 18-09-2023
Ảnh hưởng của các nguồn tinh trùng khác nhau đến kết quả lâm sàng của chu kỳ trưởng thành tế bào trứng in vitro kết hợp với tiêm tinh trùng vào bào tương noãn - Ngày đăng: 18-09-2023
Sự sụp khoang phôi tự phát ở phôi nang người có liên quan đến chất lượng hình thái kém hơn cũng như tỷ lệ thoái hóa và lệch bội cao hơn: một phân tích toàn diện được tiêu chuẩn hóa thông qua trí tuệ nhân tạo - Ngày đăng: 18-09-2023
Ảnh hưởng của số lượng noãn sau chọc hút đến kết quả điều trị IVF - Ngày đăng: 18-09-2023
Sự sụp khoang phôi tự phát - một dấu hiệu tiên lượng cho phôi nang: một tổng quan hệ thống và phân tích gộp - Ngày đăng: 18-09-2023
Hình thái ICM là dấu chỉ sinh học tốt hơn trong việc tiên lượng khả năng sống của phôi nang - Ngày đăng: 07-09-2023
So sánh kết quả lâm sàng ở những phôi nang ngày 5 chất lượng kém và ngày 6 chất lượng tốt ở các chu kỳ chuyển đơn phôi nang - Ngày đăng: 07-09-2023
Đánh giá khả năng chứa máu kinh của các sản phẩm vệ sinh kinh nguyệt hiện đại - Ngày đăng: 07-09-2023
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK