Tin tức
on Thursday 21-09-2023 4:24pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Nông Thị Hoài
Bệnh viện Đại học Y dược Buôn Ma Thuột
Tập hợp mạng lưới nội chất trơn (Smooth endoplasmic reticulum aggregates – SERa) trong tế bào noãn là một loại bất thường tế bào chất, các không bào trơn xuất hiện dưới dạng đĩa phẳng tròn trung tâm trong tế bào chất. Sự giải phóng canxi trong SER đóng một vai trò quan trọng trong sự trưởng thành và thụ tinh của noãn bào cũng như sự phát triển phôi. Sự hiện diện của SERa trong noãn bào có tương quan với sự rối loạn điều hòa tín hiệu canxi và có thể ảnh hưởng đến quá trình thụ tinh của noãn khi tiến hành thụ tinh trong ống nghiệm (IVF).
Sự hiện diện của SERa trong hỗ trợ sinh sản (ART) dẫn đến đến tỷ lệ mang thai thấp, rối loạn dấu ấn di truyền ở trẻ sơ sinh. Nhiều dị tật thai nhi đã được tìm thấy trong các lần mang thai từ noãn có SERa. Trước những kết quả này, vào năm 2011 Istanbul Consensus khuyên rằng không nên tiêm/thụ tinh và chuyển phôi có SERa. Một số nghiên cứu cũng báo cáo rằng sự hiện diện của SERa trong noãn bào liên quan đến sự thất bại trong quá trình phân cắt phôi, tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ làm tổ và tỷ lệ hình thành phôi nang thấp hơn. Tuy nhiên, các nghiên cứu khác cho thấy sự xuất hiện SERa ở noãn không hoàn toàn tương quan nghịch với kết quả phôi thai, lâm sàng và sơ sinh, và những đứa trẻ khỏe mạnh bình thường có thể được sinh ra từ phôi có nguồn gốc từ noãn bào có SERa. Việc loại bỏ noãn có SERa khỏi các chu kỳ ICSI có thể làm tăng tần suất hủy chuyển phôi.
Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu trên 1090 chu kỳ ICSI với 299 trẻ sơ sinh từ các chu kỳ noãn có sự xuất hiện SERa hoặc không xuất hiện SERa (bao gồm cả những em bé chỉ có nguồn gốc từ noãn bào có SERa) để nghiên cứu ảnh hưởng của SERa đối với kết quả điều trị ART.
Nghiên cứu thực hiện trên 998 bệnh nhân với 1090 chu kỳ ICSI. Tiêu chuẩn loại trừ: bệnh nhân trải qua phương pháp chia noãn IVF-ISCI, có chuẩn đoán di truyền tiền làm tổ (PGD/PGS) và hồ sơ có thông tin sai lệch.
Bệnh nhân được chia thành hai nhóm dựa vào SERa: 497 bệnh nhân với 545 chu kỳ có sự xuất hiện SERa và 501 bệnh nhân với 545 chu kỳ không có SERa.
Kết quả nghiên cứu cho thấy trong các chu kỳ có xuất hiện SERa cao hơn đáng kể so với các chu kỳ không có SERa về tổng liều gonadotropin (2199,13 ± 928,94 so với 2071,28 ± 880,37), số noãn bào thu được (12,30 ± 7,19 và 9,89 ± 7,14), nồng độ estradiol trong huyết thanh (2822,27 ± 1501,84 và 2434,00 ± 1523,53) và số lượng phôi có sẵn (3,64 ± 2,43 và 3,15 ± 2,32). Không có sự khác biệt trong các chu kỳ có SERa và không có SERa về tỷ lệ thụ tinh (58,73 ± 21,74; 58,39 ± 29,06), tỷ lệ hợp tử đa tiền nhân (0%, 0%). Không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ hình thành phôi nang được tìm thấy trong cả hai chu kỳ cũng như trong các noãn có SERa và không có SERa (47,27 ± 33,76 và 46,77 ± 35,48; P > 0,05). Tỷ lệ phôi chất lượng tốt ở chu kỳ không có SERa (28,30) cao hơn về mặt thống kê so với chu kỳ có SERa (24,20) ( P < 0,05), nhưng không có sự khác biệt giữa noãn bào có SERa (32,30) và không có SERa (30,50), P > 0,05. Không có sự khác biệt thống kê về tỷ lệ thai lâm sàng, tỷ lệ sảy thai tự nhiên, tỷ lệ sinh sống và tỷ lệ sinh non ở cả hai chu kỳ cũng như ở các noãn có SERa và không có SERa (P > 0,05). Tỷ lệ làm tổ tương đương nhau ở các chu kỳ (26,40 và 23,20; P > 0,05). 159 trẻ sơ sinh trong chu kỳ xuất hiện SERa và 140 trẻ sơ sinh trong chu kỳ không có SERa đã được theo dõi. Tỷ lệ dị tật sơ sinh giữa hai nhóm không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa chu kỳ có SERa (1,90%) và không có SERa (0,70%) (P > 0,05).
Tóm lại SERa của noãn tương quan với số lượng noãn thu được và liều lượng gonadotropin cao hơn nhưng không ảnh hưởng đến kết cục thai kỳ và không làm tăng tỷ lệ dị tật sơ sinh.
Nguồn: Tingfeng Fang, Wenchang Yu, Songbang Ou, Jinyu Lu, Ruiqi Li, Mingpeng Zhao, Yiu Leung Chan & Wenjun Wang, (2022). The impact of oocytes containing smooth endoplasmic reticulum aggregates on assisted reproductive outcomes: a cohort study
Bệnh viện Đại học Y dược Buôn Ma Thuột
Tập hợp mạng lưới nội chất trơn (Smooth endoplasmic reticulum aggregates – SERa) trong tế bào noãn là một loại bất thường tế bào chất, các không bào trơn xuất hiện dưới dạng đĩa phẳng tròn trung tâm trong tế bào chất. Sự giải phóng canxi trong SER đóng một vai trò quan trọng trong sự trưởng thành và thụ tinh của noãn bào cũng như sự phát triển phôi. Sự hiện diện của SERa trong noãn bào có tương quan với sự rối loạn điều hòa tín hiệu canxi và có thể ảnh hưởng đến quá trình thụ tinh của noãn khi tiến hành thụ tinh trong ống nghiệm (IVF).
Sự hiện diện của SERa trong hỗ trợ sinh sản (ART) dẫn đến đến tỷ lệ mang thai thấp, rối loạn dấu ấn di truyền ở trẻ sơ sinh. Nhiều dị tật thai nhi đã được tìm thấy trong các lần mang thai từ noãn có SERa. Trước những kết quả này, vào năm 2011 Istanbul Consensus khuyên rằng không nên tiêm/thụ tinh và chuyển phôi có SERa. Một số nghiên cứu cũng báo cáo rằng sự hiện diện của SERa trong noãn bào liên quan đến sự thất bại trong quá trình phân cắt phôi, tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ làm tổ và tỷ lệ hình thành phôi nang thấp hơn. Tuy nhiên, các nghiên cứu khác cho thấy sự xuất hiện SERa ở noãn không hoàn toàn tương quan nghịch với kết quả phôi thai, lâm sàng và sơ sinh, và những đứa trẻ khỏe mạnh bình thường có thể được sinh ra từ phôi có nguồn gốc từ noãn bào có SERa. Việc loại bỏ noãn có SERa khỏi các chu kỳ ICSI có thể làm tăng tần suất hủy chuyển phôi.
Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu trên 1090 chu kỳ ICSI với 299 trẻ sơ sinh từ các chu kỳ noãn có sự xuất hiện SERa hoặc không xuất hiện SERa (bao gồm cả những em bé chỉ có nguồn gốc từ noãn bào có SERa) để nghiên cứu ảnh hưởng của SERa đối với kết quả điều trị ART.
Nghiên cứu thực hiện trên 998 bệnh nhân với 1090 chu kỳ ICSI. Tiêu chuẩn loại trừ: bệnh nhân trải qua phương pháp chia noãn IVF-ISCI, có chuẩn đoán di truyền tiền làm tổ (PGD/PGS) và hồ sơ có thông tin sai lệch.
Bệnh nhân được chia thành hai nhóm dựa vào SERa: 497 bệnh nhân với 545 chu kỳ có sự xuất hiện SERa và 501 bệnh nhân với 545 chu kỳ không có SERa.
Kết quả nghiên cứu cho thấy trong các chu kỳ có xuất hiện SERa cao hơn đáng kể so với các chu kỳ không có SERa về tổng liều gonadotropin (2199,13 ± 928,94 so với 2071,28 ± 880,37), số noãn bào thu được (12,30 ± 7,19 và 9,89 ± 7,14), nồng độ estradiol trong huyết thanh (2822,27 ± 1501,84 và 2434,00 ± 1523,53) và số lượng phôi có sẵn (3,64 ± 2,43 và 3,15 ± 2,32). Không có sự khác biệt trong các chu kỳ có SERa và không có SERa về tỷ lệ thụ tinh (58,73 ± 21,74; 58,39 ± 29,06), tỷ lệ hợp tử đa tiền nhân (0%, 0%). Không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ hình thành phôi nang được tìm thấy trong cả hai chu kỳ cũng như trong các noãn có SERa và không có SERa (47,27 ± 33,76 và 46,77 ± 35,48; P > 0,05). Tỷ lệ phôi chất lượng tốt ở chu kỳ không có SERa (28,30) cao hơn về mặt thống kê so với chu kỳ có SERa (24,20) ( P < 0,05), nhưng không có sự khác biệt giữa noãn bào có SERa (32,30) và không có SERa (30,50), P > 0,05. Không có sự khác biệt thống kê về tỷ lệ thai lâm sàng, tỷ lệ sảy thai tự nhiên, tỷ lệ sinh sống và tỷ lệ sinh non ở cả hai chu kỳ cũng như ở các noãn có SERa và không có SERa (P > 0,05). Tỷ lệ làm tổ tương đương nhau ở các chu kỳ (26,40 và 23,20; P > 0,05). 159 trẻ sơ sinh trong chu kỳ xuất hiện SERa và 140 trẻ sơ sinh trong chu kỳ không có SERa đã được theo dõi. Tỷ lệ dị tật sơ sinh giữa hai nhóm không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa chu kỳ có SERa (1,90%) và không có SERa (0,70%) (P > 0,05).
Tóm lại SERa của noãn tương quan với số lượng noãn thu được và liều lượng gonadotropin cao hơn nhưng không ảnh hưởng đến kết cục thai kỳ và không làm tăng tỷ lệ dị tật sơ sinh.
Nguồn: Tingfeng Fang, Wenchang Yu, Songbang Ou, Jinyu Lu, Ruiqi Li, Mingpeng Zhao, Yiu Leung Chan & Wenjun Wang, (2022). The impact of oocytes containing smooth endoplasmic reticulum aggregates on assisted reproductive outcomes: a cohort study
Từ khóa: Ảnh hưởng SER
Các tin khác cùng chuyên mục:
Tỷ lệ sinh sống trên mỗi lần chuyển phôi không bị ảnh hưởng bởi tỷ lệ xuất hiện lưới nội chất trơn (SER) trong quần thể noãn thu nhận - Ngày đăng: 21-09-2023
Mối tương quan giữa Vitamin D và kẽm trong huyết thanh với chất lượng tinh dịch của nam giới - Ngày đăng: 18-09-2023
Ảnh hưởng của các nguồn tinh trùng khác nhau đến kết quả lâm sàng của chu kỳ trưởng thành tế bào trứng in vitro kết hợp với tiêm tinh trùng vào bào tương noãn - Ngày đăng: 18-09-2023
Sự sụp khoang phôi tự phát ở phôi nang người có liên quan đến chất lượng hình thái kém hơn cũng như tỷ lệ thoái hóa và lệch bội cao hơn: một phân tích toàn diện được tiêu chuẩn hóa thông qua trí tuệ nhân tạo - Ngày đăng: 18-09-2023
Ảnh hưởng của số lượng noãn sau chọc hút đến kết quả điều trị IVF - Ngày đăng: 18-09-2023
Sự sụp khoang phôi tự phát - một dấu hiệu tiên lượng cho phôi nang: một tổng quan hệ thống và phân tích gộp - Ngày đăng: 18-09-2023
Hình thái ICM là dấu chỉ sinh học tốt hơn trong việc tiên lượng khả năng sống của phôi nang - Ngày đăng: 07-09-2023
So sánh kết quả lâm sàng ở những phôi nang ngày 5 chất lượng kém và ngày 6 chất lượng tốt ở các chu kỳ chuyển đơn phôi nang - Ngày đăng: 07-09-2023
Đánh giá khả năng chứa máu kinh của các sản phẩm vệ sinh kinh nguyệt hiện đại - Ngày đăng: 07-09-2023
Các yếu tố liên quan đến dự trữ buồng trứng kém ở phụ nữ trẻ tuổi vô sinh: Một nghiên cứu đoàn hệ tại bệnh viện - Ngày đăng: 07-09-2023
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK