Tin tức
on Thursday 03-08-2023 9:10am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Khổng Tiết Mây Như – IVFMD
Ba tiền nhân (pro-nuclei – PN) là một trong những bất thường phổ biến nhất từ dạng 2PN. Nhiều nghiên cứu đã đánh giá các yếu tố lâm sàng và labo tương quan đến tần suất 3PN. Sự hiện diện của 3PN ở cả 2 chu kỳ IVF và ICSI có liên quan đến nồng độ Estrogen cao hơn và nhiều noãn thu được sau chọc hút hơn. Một số nhà nghiên cứu đã đề cập đến tỉ lệ 3PN có thể là một marker thay thế của chất lượng noãn, thể hiện tính toàn vẹn của noãn trong toàn bộ đoàn hệ được chiêu mộ và là chỉ số tiên lượng cho kết quả chu kỳ IVF sử dụng phôi có nguồn gốc từ noãn thụ tinh bình thường. Tỉ lệ thai lâm sàng sau chuyển đơn phôi nang có chọn lọc ở nhóm 3PN thấp hơn đáng kể so với nhóm không có 3PN. Tỉ lệ phôi bị ảnh hưởng bởi 3PN cao hơn dẫn đến kết quả lâm sàng rất thấp trong các chu kỳ ICSI. Tuy nhiên, nghiên cứu về ảnh hưởng của 3PN đối với kết quả xét nghiệm di truyền tiền làm tổ (preimplantation genetic testing – PGT) và ảnh hưởng của bệnh nhân có 3PN lên kết quả lệch bội và bất thường nhiễm sắc thể (NST) sau sinh thiết tế bào lá nuôi (trophectoderm – TE) rất hiếm. PGT bao gồm PGT cho lệch bội (PGT-A) và PGT cho các khiếm khuyết đơn gene hoặc PGT cho sự tái sắp xếp cấu trúc NST (PGT-M/SR). Nghiên cứu hiện tại nhằm phân tích tỉ lệ 3PN trong PGT-A và PGT-M/SR. PGT cần cho cả ICSI và lựa chọn chuyển đơn phôi nang. Vì vậy, liệu 3PN có gây ra tác động tiêu cực đến kết quả trong PGT hay không vẫn chưa rõ. Do đó, mục tiêu của nghiên cứu là đưa ra chứng cứ cho thấy ảnh hưởng của phôi từ hợp tử 3PN lên kết quả trong chu kỳ xét nghiệm di truyền tiền làm tổ.
Đây là một nghiên cứu hồi cứu của nhóm bệnh nhân thực hiện PGT bao gồm 139 chu kỳ xét nghiệm lệch bội (PGT-A) và 285 chu kỳ PGT-M/SR. Dữ liệu được thu thập từ T2/2020 – T1/2023. Trong 424 chu kỳ PGT được chia thành 2 nhóm gồm G1 là 343 chu kỳ (không có hợp tử 3PN) và G2 là 81 chu kỳ (có hợp tử 3PN). Tỉ lệ 3PN được so sánh giữa chu kỳ PGT-A và PGT-M/SR. Kết quả PGT được phân tích giữa 2 nhóm G1 và G2.
Kết quả cho thấy:
-Trong 424 chu kỳ PGT: 19,1% có thụ tinh 3PN
-Tỉ lệ hợp tử 3PN trong mỗi chu kỳ là 11,4%; cụ thể là 15,2% ở PGT-A và 10,5% ở PGT-M/SR (P>0,05).
-Tỉ lệ noãn MII, 2PN, phôi tốt ngày 3, phôi nang hữu dụng ở G2 đều thấp hơn đáng kể so với nhóm G1 lần lượt là 82,1%; 78,3%; 42,6% và 23,6% so với 86,9%; 90,4%; 50% và 36% (P<0,05).
-Tỉ lệ phôi nguyên bội và lệch bội ở G2 (36,1% và 47,5%) không có sự khác biệt đáng kể so với G1 (39,7% và 48,4%). Ngược lại, tỉ lệ phôi khảm ở G2 cao hơn G1 nhiều (16,3% và 11,9%) (P<0,05).
Ngoài ra, xác suất thụ tinh 3PN là 2,5-6,2% ở chu kỳ ICSI. Hầu hết các hợp tử 3PN từ IVF có 1PN cái và 2PN đực gọi là đa thụ tinh trong khi hợp tử 3PN sau ICSI cho thấy 2PN cái và 1PN đực cho thấy sự thất bại trong việc tống xuất thể cực II. Ở phôi 3PN sau ICSI, tỉ lệ cân bằng giữa XXX và XXY được quan sát thấy (không có phôi XYY). Tuy nhiên, sự tống xuất thể cực II khi đọc hình ảnh Time-lapse được khẳng định ở 92,1% hợp tử 3PN. Tần suất 3PN ở IVF >20% có thể dự đoán được kết quả thấp khi chuyển phôi nang. Trong ICSI, tỉ lệ 3PN càng cao càng ảnh hưởng đến phôi dẫn đến kết quả lâm sàng kém; cụ thể là kết quả ICSI không bị ảnh hưởng nếu tỉ lệ 3PN (<20% hoặc 25%) nhưng sẽ ảnh hưởng nếu tỉ lệ đó >20% hoặc 25%. Một số nghiên cứu cũng chứng minh rằng AMH tương quan đáng kể với sự hiện diện của nhiều PN trong hợp tử. Mặt khác, một nghiên cứu cho thấy không phải tất cả phôi 3PN đều bất thường; chẳng hạn như phôi có 2PN kích thước bình thường và 1PN nhỏ hơn (2,1PN) là lưỡng bội nhưng lại có xu hướng lệch bội nên không được dùng cho chuyển phôi.
Tóm lại, tỉ lệ hình thành 3PN không có liên quan đến chu kỳ PGT-A hay PGT-M/SR. Bên cạnh đó, 3PN có thể không ảnh hưởng đến tỉ lệ nguyên bội và lệch bội. Tuy nhiên, tần suất xuất hiện 3PN có ảnh hưởng đến sự hình thành phôi tốt và phát triển phôi nang cũng như liên quan đến tỉ lệ khảm trong PGT.
Nguồn: Wu X.H, Jiang Y, Yan J.C, Song GE, Geng C.P, Zhang X.H. Effect of three pro-nuclei (3PN) on the outcome of PGT. 2023 Jul 14.
Ba tiền nhân (pro-nuclei – PN) là một trong những bất thường phổ biến nhất từ dạng 2PN. Nhiều nghiên cứu đã đánh giá các yếu tố lâm sàng và labo tương quan đến tần suất 3PN. Sự hiện diện của 3PN ở cả 2 chu kỳ IVF và ICSI có liên quan đến nồng độ Estrogen cao hơn và nhiều noãn thu được sau chọc hút hơn. Một số nhà nghiên cứu đã đề cập đến tỉ lệ 3PN có thể là một marker thay thế của chất lượng noãn, thể hiện tính toàn vẹn của noãn trong toàn bộ đoàn hệ được chiêu mộ và là chỉ số tiên lượng cho kết quả chu kỳ IVF sử dụng phôi có nguồn gốc từ noãn thụ tinh bình thường. Tỉ lệ thai lâm sàng sau chuyển đơn phôi nang có chọn lọc ở nhóm 3PN thấp hơn đáng kể so với nhóm không có 3PN. Tỉ lệ phôi bị ảnh hưởng bởi 3PN cao hơn dẫn đến kết quả lâm sàng rất thấp trong các chu kỳ ICSI. Tuy nhiên, nghiên cứu về ảnh hưởng của 3PN đối với kết quả xét nghiệm di truyền tiền làm tổ (preimplantation genetic testing – PGT) và ảnh hưởng của bệnh nhân có 3PN lên kết quả lệch bội và bất thường nhiễm sắc thể (NST) sau sinh thiết tế bào lá nuôi (trophectoderm – TE) rất hiếm. PGT bao gồm PGT cho lệch bội (PGT-A) và PGT cho các khiếm khuyết đơn gene hoặc PGT cho sự tái sắp xếp cấu trúc NST (PGT-M/SR). Nghiên cứu hiện tại nhằm phân tích tỉ lệ 3PN trong PGT-A và PGT-M/SR. PGT cần cho cả ICSI và lựa chọn chuyển đơn phôi nang. Vì vậy, liệu 3PN có gây ra tác động tiêu cực đến kết quả trong PGT hay không vẫn chưa rõ. Do đó, mục tiêu của nghiên cứu là đưa ra chứng cứ cho thấy ảnh hưởng của phôi từ hợp tử 3PN lên kết quả trong chu kỳ xét nghiệm di truyền tiền làm tổ.
Đây là một nghiên cứu hồi cứu của nhóm bệnh nhân thực hiện PGT bao gồm 139 chu kỳ xét nghiệm lệch bội (PGT-A) và 285 chu kỳ PGT-M/SR. Dữ liệu được thu thập từ T2/2020 – T1/2023. Trong 424 chu kỳ PGT được chia thành 2 nhóm gồm G1 là 343 chu kỳ (không có hợp tử 3PN) và G2 là 81 chu kỳ (có hợp tử 3PN). Tỉ lệ 3PN được so sánh giữa chu kỳ PGT-A và PGT-M/SR. Kết quả PGT được phân tích giữa 2 nhóm G1 và G2.
Kết quả cho thấy:
-Trong 424 chu kỳ PGT: 19,1% có thụ tinh 3PN
-Tỉ lệ hợp tử 3PN trong mỗi chu kỳ là 11,4%; cụ thể là 15,2% ở PGT-A và 10,5% ở PGT-M/SR (P>0,05).
-Tỉ lệ noãn MII, 2PN, phôi tốt ngày 3, phôi nang hữu dụng ở G2 đều thấp hơn đáng kể so với nhóm G1 lần lượt là 82,1%; 78,3%; 42,6% và 23,6% so với 86,9%; 90,4%; 50% và 36% (P<0,05).
-Tỉ lệ phôi nguyên bội và lệch bội ở G2 (36,1% và 47,5%) không có sự khác biệt đáng kể so với G1 (39,7% và 48,4%). Ngược lại, tỉ lệ phôi khảm ở G2 cao hơn G1 nhiều (16,3% và 11,9%) (P<0,05).
Ngoài ra, xác suất thụ tinh 3PN là 2,5-6,2% ở chu kỳ ICSI. Hầu hết các hợp tử 3PN từ IVF có 1PN cái và 2PN đực gọi là đa thụ tinh trong khi hợp tử 3PN sau ICSI cho thấy 2PN cái và 1PN đực cho thấy sự thất bại trong việc tống xuất thể cực II. Ở phôi 3PN sau ICSI, tỉ lệ cân bằng giữa XXX và XXY được quan sát thấy (không có phôi XYY). Tuy nhiên, sự tống xuất thể cực II khi đọc hình ảnh Time-lapse được khẳng định ở 92,1% hợp tử 3PN. Tần suất 3PN ở IVF >20% có thể dự đoán được kết quả thấp khi chuyển phôi nang. Trong ICSI, tỉ lệ 3PN càng cao càng ảnh hưởng đến phôi dẫn đến kết quả lâm sàng kém; cụ thể là kết quả ICSI không bị ảnh hưởng nếu tỉ lệ 3PN (<20% hoặc 25%) nhưng sẽ ảnh hưởng nếu tỉ lệ đó >20% hoặc 25%. Một số nghiên cứu cũng chứng minh rằng AMH tương quan đáng kể với sự hiện diện của nhiều PN trong hợp tử. Mặt khác, một nghiên cứu cho thấy không phải tất cả phôi 3PN đều bất thường; chẳng hạn như phôi có 2PN kích thước bình thường và 1PN nhỏ hơn (2,1PN) là lưỡng bội nhưng lại có xu hướng lệch bội nên không được dùng cho chuyển phôi.
Tóm lại, tỉ lệ hình thành 3PN không có liên quan đến chu kỳ PGT-A hay PGT-M/SR. Bên cạnh đó, 3PN có thể không ảnh hưởng đến tỉ lệ nguyên bội và lệch bội. Tuy nhiên, tần suất xuất hiện 3PN có ảnh hưởng đến sự hình thành phôi tốt và phát triển phôi nang cũng như liên quan đến tỉ lệ khảm trong PGT.
Nguồn: Wu X.H, Jiang Y, Yan J.C, Song GE, Geng C.P, Zhang X.H. Effect of three pro-nuclei (3PN) on the outcome of PGT. 2023 Jul 14.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Đánh giá khả năng phát triển của các hợp tử mang 3 tiền nhân nhỏ - Ngày đăng: 03-08-2023
Phân tích so sánh phương pháp chọn lọc tinh trùng bằng thiết bị mới (lenshooke) với thiết bị vi dòng chảy và phương pháp ly tâm thang nồng độ trong cải thiện chất lượng tinh trùng - Ngày đăng: 03-08-2023
Mối liên hệ giữa mức độ thừa cân đến tỷ lệ phôi nguyên bội ở phụ nữ thực hiện sàng lọc di truyền tiền làm tổ trong các chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm - Ngày đăng: 03-08-2023
Nuôi cấy ở nồng độ oxy 2% tốt cho sự hình thành phôi nang ở nhóm bệnh nhân có phôi phát triển kém giai đoạn phân chia - Ngày đăng: 23-07-2023
Sự hình thành phôi nang và trao đổi chất ở phôi người có phụ thuộc vào loại tủ cấy được sử dụng?: Một nghiên cứu ngẫu nhiên có nhóm chứng - Ngày đăng: 23-07-2023
Đông lạnh ống sinh tinh bằng thiết bị cryopiece - Ngày đăng: 23-07-2023
Rescue ICSI 1 ngày sau ICSI: Ngăn tình trạng thất bại thụ tinh hoàn toàn sau IVF cổ điển và mang lại tỷ lệ trẻ sinh sống cao hơn khi chuyển phôi nang trữ lạnh - Ngày đăng: 23-07-2023
Không tìm thấy DNA trong dịch khoang phôi liên quan đến tỷ lệ trẻ sinh sống cao hơn ở cả các ca có/không thực hiện PGT-A - Ngày đăng: 23-07-2023
Sự phức tạp của bộ gen phôi người – Các tế bào bất thường nhiễm sắc thể sẽ bị loại khỏi sự phát triển phôi thai - Ngày đăng: 23-07-2023
Nghiên cứu mối tương quan giữa các thông số tinh dịch đồ và tỷ lệ lệch bội của phôi trong xét nghiệm di truyền tiền làm tổ về lệch bội nhiễm sắc thể (PGT-A) - Ngày đăng: 21-07-2023
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Quinter Central Nha Trang, chiều thứ bảy 11.1.2025 (13:00 - 17:00)
Năm 2020
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK