Tin tức
on Thursday 03-08-2023 9:07am
Danh mục: Tin quốc tế
CVPH. Phạm Duy Tùng – IVFMD Tân Bình
Trong các chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm (IVF), việc đánh giá thụ tinh thường được thực hiện sau 13-19 giờ sau khi cho thụ tinh với tinh trùng hoặc tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (intracytoplasmic sperm injection - ICSI). Thụ tinh bình thường được xác định khi có sự xuất hiện của 2 tiền nhân (2PN). Nếu số lượng tiền nhân khác 2, được gọi là thụ tinh bất thường, thường thấy nhất gồm có 1PN trong đó có 1 tiền nhân duy nhất xuất hiện và 3PN với sự xuất hiện của 3 tiền nhân. Tỷ lệ thụ tinh bất thường là khoảng 10% trong số các noãn thụ tinh. Hợp tử 1PN và 3PN thường bị loại bỏ do các nguy cơ mang các bất thường về số lượng nhiễm sắc thể. Việc nuôi cấy những hợp tử này thành phôi để chuyển cho bệnh nhân liệu có đem lại kết quả hay không vẫn cần được nghiên cứu kỹ lưỡng và công bố trên những tạp chí về hỗ trợ sinh sản uy tín.
Hợp tử 1PN được cho là thể đơn bội, tuy nhiên, nhiều nghiên cứu cho thấy những hợp tử này có thể chứa bộ nhiễm sắc thể nguyên bội, đặc biệt trong những trường hợp tiền nhân hoà màng với nhau sớm hoặc xuất hiện không đồng thời với nhau. Nguồn gốc của hợp tử 1PN được giải thích là do noãn tự hoạt hoá và trinh sản hoặc sự hình thành tiền nhân không đồng bộ và được cho là có sự liên hệ đến sự thất bại làm tổ. Mặc dù vậy nhiều nghiên cứu cho thấy hợp tử 1PN vẫn có khả năng phát triển đến giai đoạn phôi nang và phát triển đến trẻ sinh sống.
Hợp tử 3PN theo lý thuyết có thể đến từ các nguyên nhân khác nhau. Đầu tiên là sự thụ tinh của nhiều hơn 1 tinh trùng trong thụ tinh ống nghiệm cổ điển. Trong ICSI, nguyên nhân được cho là noãn đã không thể tống xuất thể cực thứ hai do lỗi trong quá trình giảm phân. Gỉa thuyết này nhanh chóng bị nghi ngờ khi các nghiên cứu gần đây sử dụng tủ nuôi cấy theo dõi liên tục timelapse cho thấy hầu hết những hợp tử 3PN đều tống xuất được thể cực thứ hai. Những hợp tử 3PN cũng được cho là mang bộ nhiễm sắc thể tam bội và chiếm từ 15-18% số trường hợp bất thường về cấu trúc nhiễm sắc thể trong các ca sảy thai. Mặc dù có số lượng tiền nhân bất thường nhưng nhiều nghiên cứu nhận thấy số lượng tiền nhân không phải là một yếu tố có thể sử dụng để tiên lượng bộ nhiễm sắc thể nguyên bội của phôi. Trong nhiều trường hợp, các hợp tử bất thường có thể tự sửa chữa để trở lại thành phôi nguyên bội, quá trình này thường xảy ra ở giai đoạn phát triển sớm của phôi. Một giả thuyết được đưa ra đó là những hợp tử 3PN không có đủ số trung thể so với số tiền nhân mà nó có, điều đó dẫn đến việc những phôi này không có đủ số vi ống để hình thành 3 tiền nhân và từ đó vô tình quay trở lại phát triển như hợp tử 2PN.
Một dạng bất thường khác được quan sát là sự xuất hiện của một tiền nhân nhỏ, được gọi là micro 3PN hoặc 2,1PN. Những hợp tử này có sự hiện diện của 1 tiền nhân có kích thước nhỏ hơn so với hợp tử 2 hay 3 tiền nhân thông thường. Những hợp tử này thông thường cũng bị loại bỏ như những hợp tử 1PN hay 3PN do những lo ngại về việc chúng mang những bất thường trong nhiễm sắc thể. Tuy nhiên những nghiên cứu gần đây cho thấy những hợp tử micro 3PN hay 2,1PN này có tỷ lệ nguyên bội cao, thậm chí có báo cáo về việc trẻ sinh sống từ những hợp tử này. Dù có những bằng chứng cho thấy việc sử dụng phôi từ những hợp tử này hoàn toàn khả thi, nhưng lượng dữ liệu này là quá ít ỏi, nhất là đối với trường hợp micro 3PN vốn chỉ chiếm khoảng 1% số noãn thụ tinh. Do đó, nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá hiệu quả về tiềm năng sử dụng của những hợp tử này trên nhóm phôi có thực hiện kỹ thuật xét nghiệm sàng lọc di truyền tiền làm tổ (preimplantation genetic testing for aneuploidy - PGT-A).
Hồi cứu được lấy dữ liệu đối với những trường hợp thụ tinh trong ống nghiệm từ 2018-2021 có thực hiện PGT-A. Việc phân tích sẽ bao gồm cả phôi từ hợp tử 2PN và micro 3PN. Những trường hợp bị loại khỏi nghiên cứu bao gồm phôi từ noãn đông lạnh, tinh trùng từ thủ thuật, phôi trữ đông được rã ra để PGT-A. Phôi nguyên bội từ hợp tử micro 3PN sẽ được cân nhắc sử dụng nếu không có phôi nguyên bội nào từ hợp tử 2PN.
Kết quả của nghiên cứu thu nhận trên 75903 noãn trưởng thành được ICSI. Trong đó 79,3% là hợp tử 2PN, và 0,24% là hợp tử micro 3PN. Tỷ lệ phôi phát triển được đến giai đoạn phôi nang đủ điều kiện sinh thiết có sự chênh lệch đáng kể giữa 2 nhóm (39,8% ở nhóm 2PN so với 23,0% ở nhóm micro 3PN, p<0,00001). Tỷ lệ phôi nguyên bội từ hợp tử micro 3PN cũng thấp hơn đáng kể so với nhóm 2PN (27,5% so với 51,4%, p=0,06) nhưng không đạt được ý nghĩa thống kê. Tỷ lệ khảm ở nhóm micro 3PN thấp hơn nhưng do số liệu thu nhận được quá ít để có thể đi đến được kết luận nào.
Một kết quả đáng ngạc nhiên là không có bất kỳ phôi micro 3PN nào ở thể tam bội. Sự phân bổ các dạng bất thường từ phôi micro 3PN gần như tương tự khi so sánh với các phôi từ 2PN được sử dụng để xác nhận kết quả tại phòng xét nghiệm di truyền.
Có 4 phôi từ hợp tử micro 3PN được chuyển cho bệnh nhân. Một trường hợp đã sinh bé, một trường hợp sảy thai sau khi xác định được chiều dài đầu mông (không sinh thiết mẫu thai sảy), một phát triển đến thai diễn tiến và trường hợp cuối cùng không có thai.
Nghiên cứu này cho thấy hợp tử micro 3PN có tiềm năng phát triển thành phôi nang nguyên bội và có thể phát triển đến trẻ sinh sống. Điều này có sự đối lập với các nghiên cứu trước rằng những hợp tử này mang các bất thường về di truyền và không thể dùng để chuyển phôi. Nghiên cứu còn nhận thấy hình thái của hợp tử 3PN không tiên lượng chính xác tình trạng tam bội của hợp tử 3PN. Kết quả chuyển phôi của 4 trường hợp cho thấy có 3 trường hợp có thai dù có 1 trường hợp sảy thai. Tuy nhiên, điều này có nghĩa những cặp vợ chồng chỉ có phôi từ hợp tử micro 3PN vẫn có cơ hội chuyển phôi và có trẻ sinh sống với điều kiện cần thực hiện PGT-A và được tư vấn kỹ càng.
Nghiên cứu vẫn còn những hạn chế về mặt thiết kế (hồi cứu) cũng như chưa có định nghĩa chính xác cho hợp tử micro 3PN. Số lượng phôi từ hợp tử bất thường được chuyển vẫn còn thấp và cần có thêm những chứng cứ trong tương lai. Nghiên cứu này sẽ giúp những bệnh nhân ít noãn ít phôi và có phôi từ các hợp tử bất thường có cơ hội có con từ những hợp tử này dù cho cơ hội phát triển của những hợp tử này rất thấp.
Nguồn: Canon C, Thurman A, Li A, et al. Assessing the clinical viability of micro 3 pronuclei zygotes. J Assist Reprod Genet. 2023;40(7):1765-1772. doi:10.1007/s10815-023-02830-y
Trong các chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm (IVF), việc đánh giá thụ tinh thường được thực hiện sau 13-19 giờ sau khi cho thụ tinh với tinh trùng hoặc tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (intracytoplasmic sperm injection - ICSI). Thụ tinh bình thường được xác định khi có sự xuất hiện của 2 tiền nhân (2PN). Nếu số lượng tiền nhân khác 2, được gọi là thụ tinh bất thường, thường thấy nhất gồm có 1PN trong đó có 1 tiền nhân duy nhất xuất hiện và 3PN với sự xuất hiện của 3 tiền nhân. Tỷ lệ thụ tinh bất thường là khoảng 10% trong số các noãn thụ tinh. Hợp tử 1PN và 3PN thường bị loại bỏ do các nguy cơ mang các bất thường về số lượng nhiễm sắc thể. Việc nuôi cấy những hợp tử này thành phôi để chuyển cho bệnh nhân liệu có đem lại kết quả hay không vẫn cần được nghiên cứu kỹ lưỡng và công bố trên những tạp chí về hỗ trợ sinh sản uy tín.
Hợp tử 1PN được cho là thể đơn bội, tuy nhiên, nhiều nghiên cứu cho thấy những hợp tử này có thể chứa bộ nhiễm sắc thể nguyên bội, đặc biệt trong những trường hợp tiền nhân hoà màng với nhau sớm hoặc xuất hiện không đồng thời với nhau. Nguồn gốc của hợp tử 1PN được giải thích là do noãn tự hoạt hoá và trinh sản hoặc sự hình thành tiền nhân không đồng bộ và được cho là có sự liên hệ đến sự thất bại làm tổ. Mặc dù vậy nhiều nghiên cứu cho thấy hợp tử 1PN vẫn có khả năng phát triển đến giai đoạn phôi nang và phát triển đến trẻ sinh sống.
Hợp tử 3PN theo lý thuyết có thể đến từ các nguyên nhân khác nhau. Đầu tiên là sự thụ tinh của nhiều hơn 1 tinh trùng trong thụ tinh ống nghiệm cổ điển. Trong ICSI, nguyên nhân được cho là noãn đã không thể tống xuất thể cực thứ hai do lỗi trong quá trình giảm phân. Gỉa thuyết này nhanh chóng bị nghi ngờ khi các nghiên cứu gần đây sử dụng tủ nuôi cấy theo dõi liên tục timelapse cho thấy hầu hết những hợp tử 3PN đều tống xuất được thể cực thứ hai. Những hợp tử 3PN cũng được cho là mang bộ nhiễm sắc thể tam bội và chiếm từ 15-18% số trường hợp bất thường về cấu trúc nhiễm sắc thể trong các ca sảy thai. Mặc dù có số lượng tiền nhân bất thường nhưng nhiều nghiên cứu nhận thấy số lượng tiền nhân không phải là một yếu tố có thể sử dụng để tiên lượng bộ nhiễm sắc thể nguyên bội của phôi. Trong nhiều trường hợp, các hợp tử bất thường có thể tự sửa chữa để trở lại thành phôi nguyên bội, quá trình này thường xảy ra ở giai đoạn phát triển sớm của phôi. Một giả thuyết được đưa ra đó là những hợp tử 3PN không có đủ số trung thể so với số tiền nhân mà nó có, điều đó dẫn đến việc những phôi này không có đủ số vi ống để hình thành 3 tiền nhân và từ đó vô tình quay trở lại phát triển như hợp tử 2PN.
Một dạng bất thường khác được quan sát là sự xuất hiện của một tiền nhân nhỏ, được gọi là micro 3PN hoặc 2,1PN. Những hợp tử này có sự hiện diện của 1 tiền nhân có kích thước nhỏ hơn so với hợp tử 2 hay 3 tiền nhân thông thường. Những hợp tử này thông thường cũng bị loại bỏ như những hợp tử 1PN hay 3PN do những lo ngại về việc chúng mang những bất thường trong nhiễm sắc thể. Tuy nhiên những nghiên cứu gần đây cho thấy những hợp tử micro 3PN hay 2,1PN này có tỷ lệ nguyên bội cao, thậm chí có báo cáo về việc trẻ sinh sống từ những hợp tử này. Dù có những bằng chứng cho thấy việc sử dụng phôi từ những hợp tử này hoàn toàn khả thi, nhưng lượng dữ liệu này là quá ít ỏi, nhất là đối với trường hợp micro 3PN vốn chỉ chiếm khoảng 1% số noãn thụ tinh. Do đó, nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá hiệu quả về tiềm năng sử dụng của những hợp tử này trên nhóm phôi có thực hiện kỹ thuật xét nghiệm sàng lọc di truyền tiền làm tổ (preimplantation genetic testing for aneuploidy - PGT-A).
Hồi cứu được lấy dữ liệu đối với những trường hợp thụ tinh trong ống nghiệm từ 2018-2021 có thực hiện PGT-A. Việc phân tích sẽ bao gồm cả phôi từ hợp tử 2PN và micro 3PN. Những trường hợp bị loại khỏi nghiên cứu bao gồm phôi từ noãn đông lạnh, tinh trùng từ thủ thuật, phôi trữ đông được rã ra để PGT-A. Phôi nguyên bội từ hợp tử micro 3PN sẽ được cân nhắc sử dụng nếu không có phôi nguyên bội nào từ hợp tử 2PN.
Kết quả của nghiên cứu thu nhận trên 75903 noãn trưởng thành được ICSI. Trong đó 79,3% là hợp tử 2PN, và 0,24% là hợp tử micro 3PN. Tỷ lệ phôi phát triển được đến giai đoạn phôi nang đủ điều kiện sinh thiết có sự chênh lệch đáng kể giữa 2 nhóm (39,8% ở nhóm 2PN so với 23,0% ở nhóm micro 3PN, p<0,00001). Tỷ lệ phôi nguyên bội từ hợp tử micro 3PN cũng thấp hơn đáng kể so với nhóm 2PN (27,5% so với 51,4%, p=0,06) nhưng không đạt được ý nghĩa thống kê. Tỷ lệ khảm ở nhóm micro 3PN thấp hơn nhưng do số liệu thu nhận được quá ít để có thể đi đến được kết luận nào.
Một kết quả đáng ngạc nhiên là không có bất kỳ phôi micro 3PN nào ở thể tam bội. Sự phân bổ các dạng bất thường từ phôi micro 3PN gần như tương tự khi so sánh với các phôi từ 2PN được sử dụng để xác nhận kết quả tại phòng xét nghiệm di truyền.
Có 4 phôi từ hợp tử micro 3PN được chuyển cho bệnh nhân. Một trường hợp đã sinh bé, một trường hợp sảy thai sau khi xác định được chiều dài đầu mông (không sinh thiết mẫu thai sảy), một phát triển đến thai diễn tiến và trường hợp cuối cùng không có thai.
Nghiên cứu này cho thấy hợp tử micro 3PN có tiềm năng phát triển thành phôi nang nguyên bội và có thể phát triển đến trẻ sinh sống. Điều này có sự đối lập với các nghiên cứu trước rằng những hợp tử này mang các bất thường về di truyền và không thể dùng để chuyển phôi. Nghiên cứu còn nhận thấy hình thái của hợp tử 3PN không tiên lượng chính xác tình trạng tam bội của hợp tử 3PN. Kết quả chuyển phôi của 4 trường hợp cho thấy có 3 trường hợp có thai dù có 1 trường hợp sảy thai. Tuy nhiên, điều này có nghĩa những cặp vợ chồng chỉ có phôi từ hợp tử micro 3PN vẫn có cơ hội chuyển phôi và có trẻ sinh sống với điều kiện cần thực hiện PGT-A và được tư vấn kỹ càng.
Nghiên cứu vẫn còn những hạn chế về mặt thiết kế (hồi cứu) cũng như chưa có định nghĩa chính xác cho hợp tử micro 3PN. Số lượng phôi từ hợp tử bất thường được chuyển vẫn còn thấp và cần có thêm những chứng cứ trong tương lai. Nghiên cứu này sẽ giúp những bệnh nhân ít noãn ít phôi và có phôi từ các hợp tử bất thường có cơ hội có con từ những hợp tử này dù cho cơ hội phát triển của những hợp tử này rất thấp.
Nguồn: Canon C, Thurman A, Li A, et al. Assessing the clinical viability of micro 3 pronuclei zygotes. J Assist Reprod Genet. 2023;40(7):1765-1772. doi:10.1007/s10815-023-02830-y
Các tin khác cùng chuyên mục:
Phân tích so sánh phương pháp chọn lọc tinh trùng bằng thiết bị mới (lenshooke) với thiết bị vi dòng chảy và phương pháp ly tâm thang nồng độ trong cải thiện chất lượng tinh trùng - Ngày đăng: 03-08-2023
Mối liên hệ giữa mức độ thừa cân đến tỷ lệ phôi nguyên bội ở phụ nữ thực hiện sàng lọc di truyền tiền làm tổ trong các chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm - Ngày đăng: 03-08-2023
Nuôi cấy ở nồng độ oxy 2% tốt cho sự hình thành phôi nang ở nhóm bệnh nhân có phôi phát triển kém giai đoạn phân chia - Ngày đăng: 23-07-2023
Sự hình thành phôi nang và trao đổi chất ở phôi người có phụ thuộc vào loại tủ cấy được sử dụng?: Một nghiên cứu ngẫu nhiên có nhóm chứng - Ngày đăng: 23-07-2023
Đông lạnh ống sinh tinh bằng thiết bị cryopiece - Ngày đăng: 23-07-2023
Rescue ICSI 1 ngày sau ICSI: Ngăn tình trạng thất bại thụ tinh hoàn toàn sau IVF cổ điển và mang lại tỷ lệ trẻ sinh sống cao hơn khi chuyển phôi nang trữ lạnh - Ngày đăng: 23-07-2023
Không tìm thấy DNA trong dịch khoang phôi liên quan đến tỷ lệ trẻ sinh sống cao hơn ở cả các ca có/không thực hiện PGT-A - Ngày đăng: 23-07-2023
Sự phức tạp của bộ gen phôi người – Các tế bào bất thường nhiễm sắc thể sẽ bị loại khỏi sự phát triển phôi thai - Ngày đăng: 23-07-2023
Nghiên cứu mối tương quan giữa các thông số tinh dịch đồ và tỷ lệ lệch bội của phôi trong xét nghiệm di truyền tiền làm tổ về lệch bội nhiễm sắc thể (PGT-A) - Ngày đăng: 21-07-2023
Sinh thiết phôi lại có nên được cân nhắc là một chiến lược thường quy để tăng số lượng phôi có thể sử dụng để chuyển không? - Ngày đăng: 21-07-2023
Thừa cân, béo phì và kết quả điều trị hỗ trợ sinh sản: một tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp - Ngày đăng: 21-07-2023
Một số đột biến gen liên quan đến thất bại thụ tinh sau IVF/ICSI - Ngày đăng: 21-07-2023
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK