Tin tức
on Thursday 03-08-2023 8:57am
Danh mục: Tin quốc tế
CVPH. Phạm Duy Tùng – IVFMD Tân Bình
Thừa cân béo phì là một trong những nguyên nhân gây nên những vấn đề về sức khoẻ như các bệnh về tim mạch và đặc biệt là khả năng sinh sản ở người. Nguyên nhân dẫn đến thừa cân béo phì có thể đến từ nhiều yếu tố do di truyền, hoạt động trao đổi chất, môi trường sống, các yếu tố về kinh tế, xã hội và hành vi tiêu dùng. Béo phì còn làm tăng cao các yếu tố nguy cơ trong các thai kỳ thai tự nhiên như làm tăng nguy cơ sảy thai, thai lưu, tăng nguy cơ dị tật bẩm sinh, tăng đông máu, huyết áp thai kỳ, tiểu đường thai kỳ, sinh non, hay tiểu đường tuýp I ở trẻ sinh ra.
Đối với các trường hợp thụ tinh trong ống nghiệm, kết quả ở nhóm bệnh nhân thừa cân béo phì thường được cho là kém hơn so với nhóm có cân nặng bình thường. Phụ nữ thừa cân thường có tỷ lệ làm tổ, thai lâm sàng và thai diễn tiến thấp hơn, trong khi nguy cơ về sảy thai lại tăng cao. Chưa kể đến liều kích thích buồng trứng ở nhóm bệnh nhân này thường cao hơn, khả năng bị huỷ chu kỳ điều trị cũng cao hơn do nồng độ các hormone khác biệt cùng với số lượng noãn thu nhận được ít hơn so với nhóm cân nặng bình thường.
Phụ nữ thừa cân có thể làm tăng nguy cơ tạo ra noãn có các bất thường di truyền, với nguyên nhân đến từ phản ứng viêm mạn tính, mất cân bằng hormone hay ảnh hưởng đến quá trình trao đổi chất của cơ thể, tuy nhiên các kết quả vẫn còn nhiều tranh cãi. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá mối tương quan giữa tỷ lệ phôi nguyên bội và tình trạng thừa cân của người phụ nữ trong các chu kỳ thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm (In vitro fertilization - IVF) có thực hiện sàng lọc di truyền tiền làm tổ (Preimplantation genetic testing - PGT).
Hồi cứu được thực hiện nhằm đánh gía mối tương quan giữa BMI và tỷ lệ phôi nguyên bội ở những phụ nữ thực hiện IVF có chỉ định PGT. Nghiên cứu được thực hiện trên nhóm bệnh nhân nữ ≤45 tuổi sử dụng trứng tự thân. BMI được xác định dựa vào chiều cao và cân nặng của bệnh nhân khi bắt đầu chu kỳ IVF. Tỷ lệ phôi nguyên bội được xác định bằng tỷ số giữa số phôi có kết quả PGT nguyên bội với số phôi thực hiện sinh thiết trong chu kỳ đó.
Dữ liệu được thu thập từ 905 phụ nữ thực hiện điều trị trong 1335 chu kỳ IVF có thực hiện PGT từ 9/2013 đến 9/2020. Những bệnh nhân này sau đó được chia vào 3 nhóm dựa trên chỉ số khối cơ thể (body mass index - BMI): cân nặng bình thường (BMI < 25, n=648), thừa cân (BMI từ 25-29,9; n=377) và béo phì (BMI ≥30, n=310). Ngoài tỷ lệ phôi nguyên bội ở các nhóm bệnh nhân, nghiên cứu cũng phân tích các yếu tố khác bao gồm nồng độ estradiol cao nhất, số noãn chọc hút được, tỷ lệ noãn trưởng thành, tỷ lệ phôi nang chất lượng tốt, tỷ lệ thai lâm sàng, tỷ lệ sảy thai, thai diễn tiến và trẻ sinh sống.
Kết quả sau khi phân tích nhóm nhận thấy:
Tóm lại, nghiên cứu này không nhận thấy mối tương quan giữa tình trạng thừa cân béo phì đến tỷ lệ phôi nguyên bội ở những phụ nữ thực hiện IVF. Những phát hiện này cho thấy béo phì không phải là nguyên nhân làm tăng tỷ lệ sảy thai hay giảm tỷ lệ sinh sống ở những phụ nữ béo phì thực hiện IVF. Những kết quả này cũng đồng nhất với các nghiên cứu trước đây. Tuy nhiên, hạn chế vẫn là phương pháp hồi cứu và thực hiện đơn trung tâm cũng như thiếu các dữ liệu về kết quả thai. Do đó vẫn cần những nghiên cứu đa trung tâm với thiết kế nghiên cứu mới để xác nhận những kết quả này.
Nguồn: Hallisey S, Makhijani R, Thorne J, et al. The association of obesity with euploidy rates in women undergoing in vitro fertilization with preimplantation genetic testing. J Assist Reprod Genet. 2022;39(11):2521-2528. doi:10.1007/s10815-022-02624-8
Thừa cân béo phì là một trong những nguyên nhân gây nên những vấn đề về sức khoẻ như các bệnh về tim mạch và đặc biệt là khả năng sinh sản ở người. Nguyên nhân dẫn đến thừa cân béo phì có thể đến từ nhiều yếu tố do di truyền, hoạt động trao đổi chất, môi trường sống, các yếu tố về kinh tế, xã hội và hành vi tiêu dùng. Béo phì còn làm tăng cao các yếu tố nguy cơ trong các thai kỳ thai tự nhiên như làm tăng nguy cơ sảy thai, thai lưu, tăng nguy cơ dị tật bẩm sinh, tăng đông máu, huyết áp thai kỳ, tiểu đường thai kỳ, sinh non, hay tiểu đường tuýp I ở trẻ sinh ra.
Đối với các trường hợp thụ tinh trong ống nghiệm, kết quả ở nhóm bệnh nhân thừa cân béo phì thường được cho là kém hơn so với nhóm có cân nặng bình thường. Phụ nữ thừa cân thường có tỷ lệ làm tổ, thai lâm sàng và thai diễn tiến thấp hơn, trong khi nguy cơ về sảy thai lại tăng cao. Chưa kể đến liều kích thích buồng trứng ở nhóm bệnh nhân này thường cao hơn, khả năng bị huỷ chu kỳ điều trị cũng cao hơn do nồng độ các hormone khác biệt cùng với số lượng noãn thu nhận được ít hơn so với nhóm cân nặng bình thường.
Phụ nữ thừa cân có thể làm tăng nguy cơ tạo ra noãn có các bất thường di truyền, với nguyên nhân đến từ phản ứng viêm mạn tính, mất cân bằng hormone hay ảnh hưởng đến quá trình trao đổi chất của cơ thể, tuy nhiên các kết quả vẫn còn nhiều tranh cãi. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá mối tương quan giữa tỷ lệ phôi nguyên bội và tình trạng thừa cân của người phụ nữ trong các chu kỳ thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm (In vitro fertilization - IVF) có thực hiện sàng lọc di truyền tiền làm tổ (Preimplantation genetic testing - PGT).
Hồi cứu được thực hiện nhằm đánh gía mối tương quan giữa BMI và tỷ lệ phôi nguyên bội ở những phụ nữ thực hiện IVF có chỉ định PGT. Nghiên cứu được thực hiện trên nhóm bệnh nhân nữ ≤45 tuổi sử dụng trứng tự thân. BMI được xác định dựa vào chiều cao và cân nặng của bệnh nhân khi bắt đầu chu kỳ IVF. Tỷ lệ phôi nguyên bội được xác định bằng tỷ số giữa số phôi có kết quả PGT nguyên bội với số phôi thực hiện sinh thiết trong chu kỳ đó.
Dữ liệu được thu thập từ 905 phụ nữ thực hiện điều trị trong 1335 chu kỳ IVF có thực hiện PGT từ 9/2013 đến 9/2020. Những bệnh nhân này sau đó được chia vào 3 nhóm dựa trên chỉ số khối cơ thể (body mass index - BMI): cân nặng bình thường (BMI < 25, n=648), thừa cân (BMI từ 25-29,9; n=377) và béo phì (BMI ≥30, n=310). Ngoài tỷ lệ phôi nguyên bội ở các nhóm bệnh nhân, nghiên cứu cũng phân tích các yếu tố khác bao gồm nồng độ estradiol cao nhất, số noãn chọc hút được, tỷ lệ noãn trưởng thành, tỷ lệ phôi nang chất lượng tốt, tỷ lệ thai lâm sàng, tỷ lệ sảy thai, thai diễn tiến và trẻ sinh sống.
Kết quả sau khi phân tích nhóm nhận thấy:
- Không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ phôi nguyên bội ở cả 3 nhóm lần lượt là 36,4%, 37,3% và 32,3% tương ứng với các nhóm cân nặng bình thường, thừa cân và béo phì. Sự khác biệt này nhỏ và không có ý nghĩa thống kê, kể cả khi có sự điều chỉnh theo độ tuổi của bệnh nhân.
- Tỷ lệ phôi nguyên bội so với số noãn thu nhận được cũng không khác biệt ở cả 3 nhóm.
- Tỷ lệ phôi có bộ nhiễm sắc thể lệch bội hay ở dạng thể khảm cũng không có sự khác biệt ở 3 nhóm BMI.
- Những kết quả lâm sàng như tỷ lệ sảy thai, thai lâm sàng, thai diễn tiến, trẻ sinh sống và phương pháp sinh cũng không khác biệt nhiều ở cả 3 nhóm.
Tóm lại, nghiên cứu này không nhận thấy mối tương quan giữa tình trạng thừa cân béo phì đến tỷ lệ phôi nguyên bội ở những phụ nữ thực hiện IVF. Những phát hiện này cho thấy béo phì không phải là nguyên nhân làm tăng tỷ lệ sảy thai hay giảm tỷ lệ sinh sống ở những phụ nữ béo phì thực hiện IVF. Những kết quả này cũng đồng nhất với các nghiên cứu trước đây. Tuy nhiên, hạn chế vẫn là phương pháp hồi cứu và thực hiện đơn trung tâm cũng như thiếu các dữ liệu về kết quả thai. Do đó vẫn cần những nghiên cứu đa trung tâm với thiết kế nghiên cứu mới để xác nhận những kết quả này.
Nguồn: Hallisey S, Makhijani R, Thorne J, et al. The association of obesity with euploidy rates in women undergoing in vitro fertilization with preimplantation genetic testing. J Assist Reprod Genet. 2022;39(11):2521-2528. doi:10.1007/s10815-022-02624-8
Các tin khác cùng chuyên mục:
Nuôi cấy ở nồng độ oxy 2% tốt cho sự hình thành phôi nang ở nhóm bệnh nhân có phôi phát triển kém giai đoạn phân chia - Ngày đăng: 23-07-2023
Sự hình thành phôi nang và trao đổi chất ở phôi người có phụ thuộc vào loại tủ cấy được sử dụng?: Một nghiên cứu ngẫu nhiên có nhóm chứng - Ngày đăng: 23-07-2023
Đông lạnh ống sinh tinh bằng thiết bị cryopiece - Ngày đăng: 23-07-2023
Rescue ICSI 1 ngày sau ICSI: Ngăn tình trạng thất bại thụ tinh hoàn toàn sau IVF cổ điển và mang lại tỷ lệ trẻ sinh sống cao hơn khi chuyển phôi nang trữ lạnh - Ngày đăng: 23-07-2023
Không tìm thấy DNA trong dịch khoang phôi liên quan đến tỷ lệ trẻ sinh sống cao hơn ở cả các ca có/không thực hiện PGT-A - Ngày đăng: 23-07-2023
Sự phức tạp của bộ gen phôi người – Các tế bào bất thường nhiễm sắc thể sẽ bị loại khỏi sự phát triển phôi thai - Ngày đăng: 23-07-2023
Nghiên cứu mối tương quan giữa các thông số tinh dịch đồ và tỷ lệ lệch bội của phôi trong xét nghiệm di truyền tiền làm tổ về lệch bội nhiễm sắc thể (PGT-A) - Ngày đăng: 21-07-2023
Sinh thiết phôi lại có nên được cân nhắc là một chiến lược thường quy để tăng số lượng phôi có thể sử dụng để chuyển không? - Ngày đăng: 21-07-2023
Thừa cân, béo phì và kết quả điều trị hỗ trợ sinh sản: một tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp - Ngày đăng: 21-07-2023
Một số đột biến gen liên quan đến thất bại thụ tinh sau IVF/ICSI - Ngày đăng: 21-07-2023
Ảnh hưởng của sự phân mảnh DNA tinh trùng đến kết quả ICSI tùy thuộc vào chất lượng noãn - Ngày đăng: 21-07-2023
Giảm dự trữ buồng trứng là yếu tố nguy cơ của tiền sản giật và giảm tưới máu nhau thai - Ngày đăng: 12-07-2023
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK