Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Wednesday 29-03-2023 9:06am
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH Võ Minh Tuấn – IVFMD Tân Bình
 
Một vài nghiên cứu trước đây cho thấy tỷ lệ mang thai và trẻ sinh sống giảm khi chuyển phôi kém, các nghiên cứu chỉ ra mối tương quan giữa chất lượng phôi và tỷ lệ điều trị thành công, nhưng các dữ liệu liên quan đến kết quả sản khoa và trẻ sơ sinh còn thiếu. Đáng chú ý là không có nghiên cứu nào so sánh những dữ liệu về nhau thai, những dữ liệu này có thể cung cấp cho chúng ta về quá trình phát triển trong tử cung, về những tổn thương của nhau thai và ảnh hưởng của nó. Do đó, mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá kết quả sản khoa và dữ liệu về nhau thai trong các trường hợp mang thai IVF theo chất lượng phôi. Các bác sĩ lâm sàng có thể sử dụng các kết quả này để theo dõi kết quả lâm sàng khi chuyển phôi chất lượng kém nhằm xác định những tổn thương nhau thai và mối tương quan nào đó với những hậu quả của nó đối với việc sinh nở sau này. Đây là một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu các ca sinh ra từ thụ tinh trong ống nghiệm, mang thai từ năm 2009 đến năm 2017. Nghiên cứu so sánh việc mang thai sau khi chuyển phôi nang chất lượng kém và phôi nang chất lượng tốt. Trong thời gian nghiên cứu, tất cả nhau thai đều được gửi đi giải phẫu bệnh. Kết quả chính là các phân tích nhau thai gồm các tổn thương về giải phẫu, viêm, rối loạn tưới máu mạch máu, sự phát triển của nhung mao. Các kết quả phụ gồm kết quả sản khoa và chu sinh ở cả 2 nhóm.
 
Tổng cộng có 132 ca ở nhóm phôi chất lượng kém so sánh với 509 ca ở nhóm phôi chất lượng tốt (nhóm đối chứng). Tuổi mẹ, số lần sinh, số nang trứng có hốc và sự hiện diện của u xơ tử cung giữa các nhóm là tương tự nhau. Chẩn đoán giảm dự trữ buồng trứng phổ biến hơn ở nhóm chất lượng kém so với nhóm đối chứng (14,3% so với 5,5%, P <0,001). Tất cả các phôi nang đều được đánh giá và phân loại theo tiêu chuẩn Gardner. Không có sự khác biệt nào giữa các nhóm về kết quả sinh non, cân nặng khi sinh, nhẹ cân, tiền sản giật và tỷ lệ sinh mổ, ngoại trừ tỷ lệ nhau thai bám thấp cao hơn ở nhóm phôi chất lượng kém so với nhóm nhóm phôi tốt (7,5% so với 3,7%, P =0,05). Ngoài ra, tỷ lệ trẻ sơ sinh nam thấp hơn ở nhóm chất lượng phôi kém (41,6% so với 53,6%, P = 0,01). Không có sự khác biệt về trọng lượng và độ dày của nhau thai giữa các nhóm nghiên cứu, các giải phẫu về hình dạng nhau thai và các bất thường của dây rốn. Trong số các rối loạn viêm được kiểm tra, tỷ lệ viêm nhung mao không rõ nguyên nhân cao hơn đáng kể ở nhóm chất lượng phôi kém (7,5% so với 2,9%, P = 0,01). Sau khi điều chỉnh các yếu tố gây nhiễu, phôi chất lượng kém có liên quan đến tỷ lệ nhau thai bám thấp cao hơn, tỷ lệ viêm nhung mao cao hơn, thiểu sản nhung mao đoạn xa, huyết khối gian bào, nhiều tổn thương do rối loạn tưới máu ở mẹ và vôi hóa nhu mô cao hơn so với nhóm đối chứng. Tỷ lệ viêm nhung mao cao hơn không rõ nguyên nhân ở nhóm chất lượng kém có thể phản ánh các phản ứng miễn dịch bị thay đổi khi chuyển phôi chất lượng kém. Nhau bong non sau khi chuyển phôi chất lượng kém có liên quan đến tỷ lệ huyết khối ở kẽ cao, các tổn thương mô đệm mạch máu của thai nhi gây mất toàn vẹn mạch máu của thai nhi. Nhìn chung, các tổn thương do rối loạn tưới máu mạch máu thai nhi có liên quan đến việc hạn chế tăng trưởng thai trong tử cung, thai chết lưu, tổn thương hệ thần kinh trung ương của thai nhi và di chứng phát triển thần kinh. Mặc dù nguy cơ tái phát thấp đối với những lần mang thai tiếp theo và kết quả sản khoa tổng thể tương tự nhau trong các nhóm, nhưng những dữ liệu này cung cấp thêm thông tin để các bác sĩ có thể theo dõi chu kỳ kĩ hơn, cũng như giảm tác động gây tổn thương ở nhóm này.
 
Hạn chế của nghiên cứu là thiết kế hồi cứu và cỡ mẫu chưa đủ lớn, tuy vậy những chứng cứ này có thể một phần giúp các bác sĩ lâm sàng tư vấn cho bệnh nhân khi cần chuyển phôi chất lượng kém. Điểm mạnh của nghiên cứu là nghiên cứu đi sâu vào phân tích nhau thai, điều mà các nghiên cứu trước đây còn thiếu. Ngoài ra, trong suốt thời gian nghiên cứu, tất cả nhau thai đều được gửi đi kiểm tra chứ không chỉ những trường hợp mang thai phức tạp, do đó sai lệch được giảm thiểu. Tất cả các nhau thai được phân tích bởi một nhà nghiên cứu bệnh học chuyên biệt duy nhất và được mô tả theo hệ thống phân loại mới nhất.
 
Tóm lại, mang thai sau thụ tinh trong ống nghiệm bằng cách chuyển phôi kém chất lượng có liên quan đến việc tăng nguy cơ nhau thai bám thấp. Các tổn thương nhau thai trong nghiên cứu cho thấy phản ứng miễn dịch đã thay đổi khi chuyển phôi kém, tuy nhiên, không ảnh hưởng đến kết quả sản khoa. Cần nhiều nghiên cứu hơn để cung cấp thêm các dữ liệu liên quan đến các kết cục này.
 
Nguồn: Hadas Ganer Herman, Alexander Volodarsky-Perel, Tuyet Nhung Ton Nu, Alexandre Machado-Gedeon, Yiming Cui, Jonathan Shaul, Michael H Dahan, Does embryo quality at transfer affect obstetric outcomes and placental findings?, Human Reproduction, 2023;dead045, https://doi.org/10.1093/humrep/dead045

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK