Tin tức
on Tuesday 28-03-2023 11:31am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Nguyễn Trung Kiên – IVF Vạn Hạnh, Bệnh viện Vạn Hạnh.
Sự biểu hiện gene và tổng hợp protein của tinh trùng bị ngừng lại trong quá trình vận chuyển của tinh hoàn và sự trưởng thành của tinh trùng được điều hòa bởi các tương tác giữa tinh tương và protein trên bề mặt tinh trùng. Vì vậy, việc nghiên cứu về sự thay đổi biểu hiện của các protein (proteomic) tinh trùng trong quá trình hoạt hóa chức năng và phản ứng thể cực đầu trở nên quan trọng. Điều này giúp chúng ta hiểu đầy đủ các quá trình mà tinh trùng trải qua trong hành trình thụ tinh của chúng. Ví dụ, hoạt hóa chức năng tinh trùng là một quá trình rất phức tạp được điều chỉnh bởi nhiều yếu tố khác nhau. Đầu tiên, các protein khảm màng trên tinh trùng được loại bỏ, việc này cũng thúc đẩy cholesterol giải phóng, làm mất ổn định màng tinh trùng nhờ tăng tính thấm của màng. Sau đó, thông qua sự kích thích của các kênh xuyên màng, dòng Ca2+ tăng lên, dẫn đến pH nội bào cao hơn. Từ đó kích hoạt các con đường truyền tin thứ cấp. Con đường kinase điều hòa tín hiệu ngoại bào (ERK) cũng kích hoạt giúp tăng cường quá trình phosphoryl hóa protein, nổi bật là quá trình phosphoryl tyrosine thông qua adenylyl cyclase hoạt động như một tín hiệu nội bào. Khi tất cả những sự kiện này được hoàn thành, tinh trùng sẽ phản ứng thể cực đầu. Phản ứng thể cực đầu là một quá trình ngoại bào phụ thuộc Ca2+ dẫn đến việc giải phóng tuần tự các enzym thủy phân và phân giải protein như acrosin và hyaluronidase. Các enzyme được phóng thích sẽ bào mỏng ZP và cho phép tinh trùng xâm nhập, tiến gần đến noãn hơn.
Tuy nhiên, các con đường tín hiệu và phân tử quy định cho sự hoạt hóa chức năng tinh trùng và phản ứng thể cực đầu chưa hoàn toàn được hiểu rõ. Do đó, nghiên cứu này được xây dựng để làm sáng tỏ thêm một số thay đổi liên quan đến proteomic của tinh trùng trong các giai đoạn thụ tinh khác nhau như khi xuất tinh, hoạt hóa chức năng, hay phản ứng thể cực đầu. Ngoài ra, những thay đổi proteomic này trên đối tượng tinh trùng bình thường (NZS) cũng được so sánh với nhóm đối tượng tinh trùng di động kém (AZS). Nhóm nghiên cứu tin rằng những phát hiện của nghiên cứu này sẽ nâng cao hiểu biết của chúng ta về các sự kiện phân tử và các protein liên quan điều chỉnh quá trình thụ tinh ở người.
2.4. Chiết xuất protein và phân cắt bằng trypsin
Mẫu tinh trùng sau mỗi bước lọc rửa, chức năng hóa, hay kích thích ly giải thể cực đầu đều sẽ được giữ lại để tiến hành phân tích proteomic. Phương pháp chuẩn bị mẫu có hỗ trợ lọc (FASP) được sử dụng để xử lý tinh trùng nhằm phân tích định lượng protein. Quá trình phân cắt protein bằng trypsin được thực hiện bằng cách ủ mẫu với 1µg trypsin ở 37◦C trong 16 giờ.
Nguồn: Chhikara, Nirmal, et al. "Proteomic changes in human spermatozoa during in-vitro capacitation and acrosome reaction in normozoospermia and asthenozoospermia. " Andrology 11.1 (2023): 73-85.
- Giới thiệu
Sự biểu hiện gene và tổng hợp protein của tinh trùng bị ngừng lại trong quá trình vận chuyển của tinh hoàn và sự trưởng thành của tinh trùng được điều hòa bởi các tương tác giữa tinh tương và protein trên bề mặt tinh trùng. Vì vậy, việc nghiên cứu về sự thay đổi biểu hiện của các protein (proteomic) tinh trùng trong quá trình hoạt hóa chức năng và phản ứng thể cực đầu trở nên quan trọng. Điều này giúp chúng ta hiểu đầy đủ các quá trình mà tinh trùng trải qua trong hành trình thụ tinh của chúng. Ví dụ, hoạt hóa chức năng tinh trùng là một quá trình rất phức tạp được điều chỉnh bởi nhiều yếu tố khác nhau. Đầu tiên, các protein khảm màng trên tinh trùng được loại bỏ, việc này cũng thúc đẩy cholesterol giải phóng, làm mất ổn định màng tinh trùng nhờ tăng tính thấm của màng. Sau đó, thông qua sự kích thích của các kênh xuyên màng, dòng Ca2+ tăng lên, dẫn đến pH nội bào cao hơn. Từ đó kích hoạt các con đường truyền tin thứ cấp. Con đường kinase điều hòa tín hiệu ngoại bào (ERK) cũng kích hoạt giúp tăng cường quá trình phosphoryl hóa protein, nổi bật là quá trình phosphoryl tyrosine thông qua adenylyl cyclase hoạt động như một tín hiệu nội bào. Khi tất cả những sự kiện này được hoàn thành, tinh trùng sẽ phản ứng thể cực đầu. Phản ứng thể cực đầu là một quá trình ngoại bào phụ thuộc Ca2+ dẫn đến việc giải phóng tuần tự các enzym thủy phân và phân giải protein như acrosin và hyaluronidase. Các enzyme được phóng thích sẽ bào mỏng ZP và cho phép tinh trùng xâm nhập, tiến gần đến noãn hơn.
Tuy nhiên, các con đường tín hiệu và phân tử quy định cho sự hoạt hóa chức năng tinh trùng và phản ứng thể cực đầu chưa hoàn toàn được hiểu rõ. Do đó, nghiên cứu này được xây dựng để làm sáng tỏ thêm một số thay đổi liên quan đến proteomic của tinh trùng trong các giai đoạn thụ tinh khác nhau như khi xuất tinh, hoạt hóa chức năng, hay phản ứng thể cực đầu. Ngoài ra, những thay đổi proteomic này trên đối tượng tinh trùng bình thường (NZS) cũng được so sánh với nhóm đối tượng tinh trùng di động kém (AZS). Nhóm nghiên cứu tin rằng những phát hiện của nghiên cứu này sẽ nâng cao hiểu biết của chúng ta về các sự kiện phân tử và các protein liên quan điều chỉnh quá trình thụ tinh ở người.
- Thiết kế nghiên cứu
- 1. Thu thập và xử lý mẫu
- 2. Chuẩn bị tinh trùng – ly tâm gradient tỷ trọng
- 3. Hoạt hóa chức năng in-vitro và phản ứng thể cực đầu
2.4. Chiết xuất protein và phân cắt bằng trypsin
Mẫu tinh trùng sau mỗi bước lọc rửa, chức năng hóa, hay kích thích ly giải thể cực đầu đều sẽ được giữ lại để tiến hành phân tích proteomic. Phương pháp chuẩn bị mẫu có hỗ trợ lọc (FASP) được sử dụng để xử lý tinh trùng nhằm phân tích định lượng protein. Quá trình phân cắt protein bằng trypsin được thực hiện bằng cách ủ mẫu với 1µg trypsin ở 37◦C trong 16 giờ.
- 4. Phân tích proteomic – sắc ký giấy, phân tích dữ liệu, tra cứu cơ sở dữ liệu để định danh protein, định lượng protein.
- 5. Phân tích thống kê và ứng dụng tin sinh học
- Kết quả
- Kết luận
Nguồn: Chhikara, Nirmal, et al. "Proteomic changes in human spermatozoa during in-vitro capacitation and acrosome reaction in normozoospermia and asthenozoospermia. " Andrology 11.1 (2023): 73-85.
Các tin khác cùng chuyên mục:
So sánh kết quả điều trị hiếm muộn giữa sử dụng tinh trùng thu nhận từ tinh hoàn với tinh trùng từ tinh dịch trên nhóm nam thiểu tinh (Oligospermia) - Ngày đăng: 28-03-2023
Đặc điểm của tinh trùng thu được từ tinh hoàn của nam giới vô tinh không do tắc nghẽn và kết quả điều trị ICSI - Ngày đăng: 28-03-2023
Bổ sung Coenzyme Q10 cho quá trình nuôi trưởng thành noãn trong ống nghiệm (IVM) giúp giảm tỉ lệ dị bội sau giảm phân - Ngày đăng: 27-03-2023
Đánh giá cấy ghép mô buồng trứng: kết quả từ ba trung tâm lâm sàng - Ngày đăng: 19-03-2023
Vai trò của chuyển ti thể trong điều trị vô sinh - Ngày đăng: 19-03-2023
Ảnh hưởng của sinh thiết đến kết quả sản khoa và sức khoẻ của trẻ từ phôi PGT - Ngày đăng: 19-03-2023
Kết cục sản khoa, chu sinh và sức khỏe của trẻ sau sinh thiết phôi cho xét nghiệm di truyền tiền làm tổ - Ngày đăng: 15-03-2023
Ảnh hưởng của hormone tăng trưởng người (hGH) đối với sự phát triển của nội mạc tử cung trong các chu kỳ kích thích buồng trứng có kiểm soát - Ngày đăng: 13-03-2023
Thai trứng bán phần với thai nhi mang bộ nhiễm sắc thể bình thường - Ngày đăng: 13-03-2023
Tốc độ di chuyển của các hạch nhân ảnh hưởng đến độ bội của phôi và trẻ sinh sống - Ngày đăng: 13-03-2023
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK