Tin tức
on Monday 13-03-2023 7:00am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Võ Minh Tuấn – IVFMD Tân Bình
Trong quá trình trưởng thành và thụ tinh của tế bào noãn, khái niệm hạch nhân (nucleolus precursor bodies – NPBs) được định nghĩa là (1) hạt bên trong nhân, là nơi tiền RNA ribosome được tổng hợp, điều này cần thiết cho quá trình giảm phân và giai đoạn phân chia sớm, (2) trong suốt quá trình thụ tinh, sự tổng hợp RNA ribosome gia tăng và tổng hợp các NPB sau đó được gọi là hạch nhân. Sau khi phân chia giảm phân và thụ tinh, các NPB được hình thành trong các tiền nhân đực (male pronuclei – mPN) và các tiền nhân cái (female pronuclei – fPN) của hợp tử, tham gia vào quá trình tái cấu trúc và tổ chức bộ gen trong quá trình phát triển phôi. Các NPB rất cần thiết cho sự phát triển của phôi sau khi thụ tinh và tham gia vào việc thiết lập các nhiễm sắc chất. Vị trí của các NPB tương quan với sự phân bố nhiễm sắc chất và việc tái định vị NPB phản ánh sự tái cấu trúc toàn bộ, phân cụm của nhiễm sắc chất ở giữa các tiền nhân. Trong quá trình tiếp hợp, các NPB di chuyển thay đổi thành các kiểu sắp xếp đặc trưng. Tốc độ di chuyển của các NPB dự đoán khả năng phát triển của phôi đến giai đoạn phôi nang và các kết quả sau này.
Có sự khác biệt giữa quy trình IVF và ICSI trong quá trình thụ tinh. ICSI vượt qua một số rào cản sinh học như lựa chọn một cách tự nhiên các giao tử phù hợp nhất cho sự phát triển tối ưu của phôi thai và thai nhi, chẳng hạn như lựa chọn tinh trùng tự nhiên. Trong quá trình ICSI, màng sinh chất của tinh trùng và acrosome, chứa các enzym thủy phân, được đưa vào trong tế bào noãn. Sự hoạt hoá tế bào noãn, bởi dao động Ca2+, sau khi thụ tinh sẽ khác nhau trong IVF và trong ICSI. Liệu những khác biệt này trong quá trình thụ tinh có ảnh hưởng đến tốc độ di chuyển của các NPB hoặc tốc độ di chuyển của các NPB có dự đoán trẻ sinh sống hay không. Do đó, nghiên cứu này đã nghiên cứu mối quan hệ giữa tốc độ di chuyển của các NPB với tình trạng thể bội của phôi, kết quả lâm sàng trong các hợp tử có nguồn gốc từ phôi IVF để xác định xem sự khác biệt trong quy trình thụ tinh có ảnh hưởng đến sự di cư của các NPB hay không và làm rõ mối quan hệ giữa sự di cư của NPB, thể bội của phôi, và tỷ lệ trẻ sinh sống (live birth – LB) trong hợp tử có nguồn gốc từ IVF.
Tốc độ di chuyển của NPB, trạng thái bội thể của phôi và tỷ lệ sinh sống (LB) đã được phân tích hồi cứu ở các hợp tử có nguồn gốc từ IVF. Các tọa độ trung tâm của mPN, fPN và NPB đã được ghi nhận tại nhiều mốc thời gian. Khoảng cách di chuyển của NPB giữa hai hình ảnh liên tiếp được đo để tính tốc độ di chuyển các NPB.
Kết quả cho thấy tốc độ di chuyển của các NPB trong mPN và fPN nhanh hơn đáng kể ở các hợp tử nguyên bội so với các hợp tử lệch bội. Trong phân tích logistic đa biến, tốc độ di chuyển của NPB trong mPN và tuổi người mẹ có liên quan đến thể nguyên bội. Tốc độ di chuyển NPB trong mPN và fPN ở các hợp tử có trẻ sinh sống cũng nhanh hơn đáng kể so với các hợp tử dẫn đến không có thai. Trong phân tích đường cong tuyến tính của LB theo tốc độ di chuyển NPB trong mPN, giá trị ngưỡng là 3,74 μm/h (AUC: 0,825; KTC 95%: 0,688 - 0,963). Khi các hợp tử nào có tốc độ di chuyển ≥ giá trị ngưỡng thì có tỷ lệ trẻ sinh sống cao (78,9% so với 21,1%).
Tóm lại, nghiên cứu này chứng minh rằng các hợp tử có tốc độ di chuyển NPB nhanh thì có tiềm năng phát triển đến trẻ sinh sống hơn, bất kể là trong IVF hay ICSI. Tốc độ di chuyển của mNPB là một yếu tố dự đoán mới về trạng thái thể bội của phôi và tỷ lệ trẻ sinh sống sau này. Việc phân tích chuyển động của mNPB có thể trở thành một phương pháp thay thế, không xâm lấn để lựa chọn phôi nang trước khi chuyển phôi cho bệnh nhân.
Nguồn: Inoue, Taketo, et al. "The migration speed of nucleolar precursor bodies in pronuclei affects in vitro fertilization‐derived human embryo ploidy status and live birth." Reproductive Medicine and Biology 22.1 (2023): e12497.
Trong quá trình trưởng thành và thụ tinh của tế bào noãn, khái niệm hạch nhân (nucleolus precursor bodies – NPBs) được định nghĩa là (1) hạt bên trong nhân, là nơi tiền RNA ribosome được tổng hợp, điều này cần thiết cho quá trình giảm phân và giai đoạn phân chia sớm, (2) trong suốt quá trình thụ tinh, sự tổng hợp RNA ribosome gia tăng và tổng hợp các NPB sau đó được gọi là hạch nhân. Sau khi phân chia giảm phân và thụ tinh, các NPB được hình thành trong các tiền nhân đực (male pronuclei – mPN) và các tiền nhân cái (female pronuclei – fPN) của hợp tử, tham gia vào quá trình tái cấu trúc và tổ chức bộ gen trong quá trình phát triển phôi. Các NPB rất cần thiết cho sự phát triển của phôi sau khi thụ tinh và tham gia vào việc thiết lập các nhiễm sắc chất. Vị trí của các NPB tương quan với sự phân bố nhiễm sắc chất và việc tái định vị NPB phản ánh sự tái cấu trúc toàn bộ, phân cụm của nhiễm sắc chất ở giữa các tiền nhân. Trong quá trình tiếp hợp, các NPB di chuyển thay đổi thành các kiểu sắp xếp đặc trưng. Tốc độ di chuyển của các NPB dự đoán khả năng phát triển của phôi đến giai đoạn phôi nang và các kết quả sau này.
Có sự khác biệt giữa quy trình IVF và ICSI trong quá trình thụ tinh. ICSI vượt qua một số rào cản sinh học như lựa chọn một cách tự nhiên các giao tử phù hợp nhất cho sự phát triển tối ưu của phôi thai và thai nhi, chẳng hạn như lựa chọn tinh trùng tự nhiên. Trong quá trình ICSI, màng sinh chất của tinh trùng và acrosome, chứa các enzym thủy phân, được đưa vào trong tế bào noãn. Sự hoạt hoá tế bào noãn, bởi dao động Ca2+, sau khi thụ tinh sẽ khác nhau trong IVF và trong ICSI. Liệu những khác biệt này trong quá trình thụ tinh có ảnh hưởng đến tốc độ di chuyển của các NPB hoặc tốc độ di chuyển của các NPB có dự đoán trẻ sinh sống hay không. Do đó, nghiên cứu này đã nghiên cứu mối quan hệ giữa tốc độ di chuyển của các NPB với tình trạng thể bội của phôi, kết quả lâm sàng trong các hợp tử có nguồn gốc từ phôi IVF để xác định xem sự khác biệt trong quy trình thụ tinh có ảnh hưởng đến sự di cư của các NPB hay không và làm rõ mối quan hệ giữa sự di cư của NPB, thể bội của phôi, và tỷ lệ trẻ sinh sống (live birth – LB) trong hợp tử có nguồn gốc từ IVF.
Tốc độ di chuyển của NPB, trạng thái bội thể của phôi và tỷ lệ sinh sống (LB) đã được phân tích hồi cứu ở các hợp tử có nguồn gốc từ IVF. Các tọa độ trung tâm của mPN, fPN và NPB đã được ghi nhận tại nhiều mốc thời gian. Khoảng cách di chuyển của NPB giữa hai hình ảnh liên tiếp được đo để tính tốc độ di chuyển các NPB.
Kết quả cho thấy tốc độ di chuyển của các NPB trong mPN và fPN nhanh hơn đáng kể ở các hợp tử nguyên bội so với các hợp tử lệch bội. Trong phân tích logistic đa biến, tốc độ di chuyển của NPB trong mPN và tuổi người mẹ có liên quan đến thể nguyên bội. Tốc độ di chuyển NPB trong mPN và fPN ở các hợp tử có trẻ sinh sống cũng nhanh hơn đáng kể so với các hợp tử dẫn đến không có thai. Trong phân tích đường cong tuyến tính của LB theo tốc độ di chuyển NPB trong mPN, giá trị ngưỡng là 3,74 μm/h (AUC: 0,825; KTC 95%: 0,688 - 0,963). Khi các hợp tử nào có tốc độ di chuyển ≥ giá trị ngưỡng thì có tỷ lệ trẻ sinh sống cao (78,9% so với 21,1%).
Tóm lại, nghiên cứu này chứng minh rằng các hợp tử có tốc độ di chuyển NPB nhanh thì có tiềm năng phát triển đến trẻ sinh sống hơn, bất kể là trong IVF hay ICSI. Tốc độ di chuyển của mNPB là một yếu tố dự đoán mới về trạng thái thể bội của phôi và tỷ lệ trẻ sinh sống sau này. Việc phân tích chuyển động của mNPB có thể trở thành một phương pháp thay thế, không xâm lấn để lựa chọn phôi nang trước khi chuyển phôi cho bệnh nhân.
Nguồn: Inoue, Taketo, et al. "The migration speed of nucleolar precursor bodies in pronuclei affects in vitro fertilization‐derived human embryo ploidy status and live birth." Reproductive Medicine and Biology 22.1 (2023): e12497.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Mối tương quan giữa tuổi mẹ và kết quả chuyển phôi nguyên bội: tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp - Ngày đăng: 13-03-2023
Hỗ trợ thoát màng bằng laser giúp cải thiện kết quả thai lâm sàng khi chuyển phôi phân chia ở những chu kỳ chuyển phôi trữ: một hồi cứu với dữ liệu lớn kết hợp kỹ thuật ghép cặp điểm số - Ngày đăng: 13-03-2023
Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong chuẩn hoá xét nghiệm di truyền tiền làm tổ giúp cải thiện kết quả thai lâm sàng ở các chu kỳ chuyển đơn phôi trữ nguyên bội - Ngày đăng: 13-03-2023
So sánh kết quả lâm sàng dựa trên hình thái khác nhau của phôi nang N5 và N6 ở chu kì chuyển phôi đông lạnh - Ngày đăng: 02-03-2023
Việc sử dụng các dịch vụ bảo tồn khả năng sinh sản cho bệnh nhân ung thư: kinh nghiệm của một cơ sở duy nhất - Ngày đăng: 02-03-2023
Ung thư ở trẻ sinh ra sau chuyển phôi đông lạnh-rã đông: Một nghiên cứu thuần tập - Ngày đăng: 02-03-2023
PIEZO-ICSI giúp tăng tỷ lệ thụ tinh so với icsi thông thường ở nhóm bệnh nhân có tiên lượng kém - Ngày đăng: 20-08-2024
Ứng dụng mạng thần kinh tích chập trong tự động hoá các kỹ thuật vi thao tác trong tương lai - Ngày đăng: 18-02-2023
Đặc điểm, mức độ phổ biến và nguyên nhân gây stress ở những bệnh nhân quyết định dừng điều trị bằng công nghệ hỗ trợ sinh sản: một tổng quan hệ thống - Ngày đăng: 18-02-2023
Tương quan giữa tuổi mẹ và kích thước tiền nhân, quá trình phân bào và sự phát triển của phôi - Ngày đăng: 06-02-2023
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK