Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Thursday 02-03-2023 2:00pm
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Phan Thanh Chi - IVFMD Tân Bình
 

Những tiến bộ trong điều trị ung thư đã giúp cải thiện kết quả lâm sàng và tỷ lệ sống sót. Tuy nhiên, nhiều phương pháp điều trị ung thư gây độc tuyến sinh dục và các bệnh nhân trẻ tuổi phải đối mặt với việc giảm khả năng sinh sản. Cùng với đó, công nghệ hỗ trợ sinh sản cũng ngày càng phát triển và mở rộng việc áp dụng lâm sàng các phương pháp điều trị bảo tồn khả năng sinh sản (fertility preservation – FP) cho các chỉ định cá nhân và y tế. Đông lạnh noãn và phôi đã trở thành phương pháp tiêu chuẩn cho FP. Ngoài ra, đông lạnh mô buồng trứng cũng đã nổi lên như một phương pháp FP được công nhận, mang lại lợi ích cho những người không thể thực hiện kích thích buồng trứng. Các phương pháp FP này có thể làm tăng xác suất có con trong tương lai, cải thiện chất lượng cuộc sống sau khi điều trị ung thư thành công và là thành phần cốt lõi của chăm sóc ung thư toàn diện.
 
Năm 2016, Hiệp hội Ung thư lâm sàng Hoa Kỳ đã công bố hướng dẫn thực hành FP dựa trên bằng chứng đầu tiên. Trong đó khuyến khích các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe thảo luận về FP với tất cả bệnh nhân trong độ tuổi sinh sản, cùng với cha mẹ hoặc người giám hộ của trẻ em và thanh thiếu niên khi vô sinh là tác dụng phụ tiềm ẩn của liệu pháp được đề xuất. Sau khi thảo luận với bác sĩ chuyên khoa ung thư, bệnh nhân nên được giới thiệu đến các chuyên gia sinh sản càng sớm càng tốt và lý tưởng nhất là trước khi bắt đầu điều trị ung thư. Trong khi khoảng 75% thanh niên sống sót sau ung thư quan tâm đến khả năng sinh sản trong tương lai của họ, thì số lượng bệnh nhân tiếp cận các dịch vụ FP trước khi điều trị ung thư lại thấp hơn đáng kể. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng vô sinh trong tương lai là mối quan tâm chính của những người sống sót sau ung thư nhưng nghiên cứu về các nguồn lực và lựa chọn dịch vụ FP cho bệnh nhân ung thư vẫn còn hạn chế. Việc thiếu sự giới thiệu đến chuyên gia sinh sản và tư vấn thích hợp là vấn đề đặc biệt nghiêm trọng, vì khả năng sinh sản trong tương lai có thể bị mất khi điều trị ung thư cứu sống ngay lập tức.
 
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng có tồn tại các rào cản nhưng lại rất ít nghiên cứu ghi nhận những rào cản này ảnh hưởng như thế nào đến việc sử dụng các dịch vụ FP. Ngoài ra còn có nghiên cứu hạn chế đánh giá loại ung thư và phương pháp FP. Mục tiêu của nghiên cứu này là phân tích các mô hình giới thiệu FP và việc sử dụng các dịch vụ tại bệnh viện tuyến ba. Với hy vọng rằng bằng cách đánh giá các mô hình giới thiệu FP, có thể giúp thiết lập các dịch vụ giới thiệu hiệu quả hơn, tối đa hóa việc can thiệp sớm FP ở bệnh nhân ung thư trong độ tuổi sinh sản.
 
Nghiên cứu được phê duyệt bởi hội đồng đánh giá của Cao đẳng Y tế Weill Cornell, cho các trường hợp bệnh nhân chẩn đoán ung thư đang hoạt động hoặc đột biến nguy cơ cao đã biết. Các bệnh nhân này được giới thiệu đến chuyên gia sinh sản từ tháng 1 năm 2011 đến tháng 12 năm 2016 tại một trung tâm chăm sóc cấp ba đã được tuyển chọn. Tuổi của bệnh nhân, chẩn đoán ung thư, thời gian từ chẩn đoán đến khi chuyển tuyến, thời gian từ khi chuyển tuyến đến can thiệp FP, phương pháp FP, điều trị ung thư và kết quả mang thai được lấy từ hồ sơ bệnh án của bệnh nhân. Giới thiệu FP đã được thực hiện bởi bác sĩ chuyên khoa ung thư trong các cuộc hẹn tại phòng khám. Sau khi được giới thiệu, bệnh nhân đặt lịch hẹn với bác sĩ chuyên khoa sinh sản. Tiếp đó, bệnh nhân thường được khám trong vòng 48 giờ sau khi được giới thiệu. Các phương pháp bảo quản khả năng sinh sản bao gồm đông lạnh noãn, đông lạnh phôi và đông lạnh mô buồng trứng hoặc chuyển vị buồng trứng.
 
Kết quả nghiên cứu cho thấy, tổng cộng có 553 bệnh nhân được giới thiệu đến bác sĩ chuyên khoa sinh sản về FP trong bối cảnh chẩn đoán y tế từ năm 2011 đến năm 2016. Trong số này, 208 bệnh nhân thỏa tiêu chuẩn thu nhận và được gặp bác sĩ chuyên khoa sinh sản. Chín mươi bệnh nhân đã trải qua các dịch vụ FP. Độ tuổi trung bình khi giới thiệu là 30,9 ± 7,9 tuổi. Ngoài ra, ung thư vú (n=94, 45%) và bệnh bạch cầu/ung thư hạch (n=62, 30%) là những chẩn đoán ung thư phổ biến nhất. Có 68,9% bệnh nhân đông lạnh noãn (n=62), 26,7% đông lạnh phôi (n=24) và 4,4% đông lạnh mô buồng trứng (n=4). Khoảng thời gian từ khi giới thiệu đến can thiệp FP dao động từ 1 đến 810 ngày, trung bình là 17 ngày.
 
Tóm lại, hầu hết bệnh nhân ung thư có can thiệp FP đều thực hiện đông lạnh noãn với độ tuổi dưới 35 và can thiệp FP trong khoảng thời gian ít hơn 30 ngày kể từ khi được giới thiệu. Trong khi lý tưởng nhất là FP nên được bắt đầu tại thời điểm chẩn đoán ung thư. Thật vậy, tất cả bệnh nhân được chẩn đoán ung thư nên được chuyển đến bác sĩ chuyên khoa sinh sản và được tư vấn về các lựa chọn FP để duy trì tương lai sinh sản mà họ mong muốn. Mặc dù nghiên cứu này cung cấp cơ sở cần thiết để đánh giá việc sử dụng các dịch vụ FP sẵn có, nhưng vẫn cần nghiên cứu thêm để xác định các rào cản đối với việc chuyển tuyến và lập kế hoạch sinh sản để hỗ trợ bệnh nhân ung thư.
 
Nguồn: McCarter K, Stewart J, Gordhandas S, Aluko A, Shah N, Schattman G, Rosenwaks Z. The use of fertility preservation services for cancer patients: a single institution experience. F S Rep. 2022 Aug 7;3(4):349-354. doi: 10.1016/j.xfre.2022.08.001. PMID: 36568923; PMCID: PMC9783135.

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK