Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Saturday 14-01-2023 3:01pm
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Nguyễn Thị Thu Thảo - IVFMD Bình Dương
 
Trong những năm gần đây, các chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm (in vitro fertilization - IVF) đã đạt được tỷ lệ thành công đáng kể. Tuy nhiên, IVF đi kèm với nguy cơ biến chứng lớn của đa thai và hội chứng quá kích buồng trứng, một tình trạng có khả năng đe dọa đến tính mạng con người. Cách duy nhất để ngăn ngừa hội chứng này là loại bỏ việc kích thích buồng trứng bằng cách sử dụng nội tiết tố. Một trong những chiến lược này là thực hiện nuôi trưởng thành noãn trong ống nghiệm (in vitro maturation - IVM) của noãn chưa trưởng thành như một giải pháp thay thế cho các phác đồ nội tiết tố ngoại sinh. Vì IVM không cần kích thích buồng trứng nên nó đã được chú ý nhiều hơn trong những năm gần đây. Những bệnh nhân mắc hội chứng buồng trứng đa nang (polycystic ovary syndrome - PCOS), vô sinh không rõ nguyên nhân, chất lượng phôi kém, rụng trứng bình thường, đáp ứng kém và có nhu cầu bảo tồn khả năng sinh sản đều phù hợp với IVM. Việc tận dụng để sử dụng các noãn không trưởng thành thành công trong các chu kỳ được kích thích là một lợi ích quan trọng. Có hai loại môi trường IVM chính là thương mại và tự chế. Việc áp dụng các môi trường thương mại có công thức đã được báo cáo là có một số nhược điểm, chẳng hạn như thời hạn sử dụng ngắn và chi phí cao khi so sánh với môi trường tiêu chuẩn được sử dụng tại các trung tâm hỗ trợ sinh sản. Môi trường tự chế được chuẩn bị từ nhiều môi trường cơ bản khác nhau, thường được sử dụng trong các phòng thí nghiệm IVF, chẳng hạn như Human Tubal Fluid (HTF), culture medium 199 hay môi trường cleavage-stage và môi trường embryo-stage. Các nghiên cứu trước đây đã so sánh hiệu quả của các môi trường nuôi cấy khác nhau để tối ưu hóa noãn người trong điều kiện IVM. Trong một nghiên cứu của Fesahat và cộng sự (2017), hiệu quả của bốn môi trường nuôi cấy khác nhau để thúc đẩy sự trưởng thành của noãn ở Metaphase I (MI) đã được so sánh. Họ kết luận rằng các loại môi trường thương mại khác nhau không dẫn đến thành công hơn trong quá trình trưởng thành, thụ tinh và phát triển phôi cho noãn MI so với môi trường tự chế. Trong một nghiên cứu khác, môi trường culture medium 199 và môi trường HTF được so sánh về tỷ lệ trưởng thành, thụ tinh và chất lượng phôi ở người, và người ta thấy rằng, mặc dù HTF được sử dụng rộng rãi trong các phòng thí nghiệm IVF, nhưng nó không phù hợp với các noãn chưa trưởng thành được lấy từ bệnh nhân PCOS. Về vấn đề này, tác dụng của việc bổ sung các yếu tố tăng trưởng khác nhau đã được nghiên cứu. Một yếu tố tăng trưởng được quan tâm nhiều nhất là yếu tố biệt hóa tăng trưởng 9 (Growth differentiation factor 9 - GDF9). GDF9, được tiết ra bởi noãn, có khả năng kích thích sự nở rộng tế bào cumulus (cumulus cells - CCs) trong cơ thể. Có báo cáo rằng hình thái của cả noãn và các CC xung quanh, đặc biệt là kích thước của CC và mức độ nở rộng, là tiêu chí quan trọng nhất đối với IVM. Trong một nghiên cứu gần đây, Chatroudi và cộng sự (2019) đã nghiên cứu ảnh hưởng của việc bổ sung môi trường IVM người với GDF9 và CCs. Kết quả cho thấy rằng có sự gia tăng tỷ lệ thụ tinh và phát triển phôi trong môi trường bổ sung. Các nghiên cứu khác cũng báo cáo tác dụng đầy hứa hẹn của việc bổ sung GDF9 trong việc nâng cao kết quả IVM ở chuột và lợn. Và sự tối ưu hóa môi trường nuôi cấy để nuôi cấy noãn chưa trưởng thành là một chiến lược quan trọng để tăng tốc độ trưởng thành của noãn trong IVM. Do đó,  Mehdi Mohsenzadeh và cộng sự (2022) đã tiến hành nghiên cứu này để đánh giá sự trưởng thành, thời gian trưởng thành, chất lượng noãn và tỷ lệ thụ tinh của noãn Germinal Vesicle (GV) và noãn MI bằng cách sử dụng hai môi trường trưởng thành khác nhau (thương mại và tự chế) có hoặc không có bổ sung GDF9-β.
Các noãn chưa trưởng thành từ 82 chu kỳ tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (Intracytoplasmic sperm injection - ICSI) trong khoảng thời gian từ tháng 12 năm 2017 đến tháng 7 năm 2019 đã được thu nhận. Tiêu chí thu nhận là vô sinh do nam giới và phụ nữ <38 tuổi, có ít nhất bốn noãn chưa trưởng thành. Bốn noãn chưa trưởng thành được chỉ định cho bốn nhóm: môi trường thương mại và môi trường tự chế có và không có GDF9-β. Các tiêu chí loại trừ là lạc nội mạc tử cung, PCOS và vô sinh nam nghiêm trọng. Sau khi trưởng thành, các noãn MII được kiểm tra dưới kính hiển vi đảo ngược để đánh giá sự hiện diện của thể cực, tính lưỡng chiết zona pellucida (ZP) và hình ảnh thoi vô sắc (meiotic spindle - MS) sau khi trưởng thành trong bốn điều kiện (môi trường thương mại hoặc tự chế, có hoặc không có GDF9-β). ICSI được thực hiện cho các noãn trưởng thành, và quá trình thụ tinh được xác nhận bằng hình ảnh của hai tiền nhân riêng biệt và hai thể cực.
 
Kết quả cho thấy có tổng số 885 noãn được thu nhận, bao gồm 338 noãn chưa trưởng thành (214 GV và 124 MI) và 547 noãn trưởng thành. Sau IVM, 267 noãn trưởng thành và 71 noãn không trưởng thành hoặc thoái hóa. Sau 48 giờ IVM, tổng tỷ lệ trưởng thành là 81,5% đối với môi trường tự chế và 76,4% đối với môi trường IVM thương mại. Tuy nhiên, không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa hai môi trường nuôi cấy về thời gian và tỷ lệ trưởng thành của noãn hoặc tỷ lệ thụ tinh (p >0,05). Bổ sung yếu tố tăng trưởng làm tăng tỷ lệ trưởng thành trong 24 giờ cho cả noãn GV và MI chỉ trong môi trường tự chế. Tỷ lệ trưởng thành sau 24 giờ cao hơn đối với noãn MI (p <0,05). Các kết quả tương tự đã được quan sát đối với hình ảnh hóa MS và cấu trúc ZP trong cả hai loại môi trường (p > 0,05). Không có sự khác biệt đáng kể về tính lưỡng chiết ZP giữa hai loại môi trường (p = 0,24). Tuy nhiên, kết quả chất lượng cao cho tính lưỡng chiết ZP được tìm thấy thường xuyên hơn khi GDF9-β được thêm vào môi trường nuôi cấy (p =0,01). Bên cạnh đó, không có sự khác biệt đáng kể giữa hai loại môi trường nuôi cấy về trực quan hóa MS khi GDF9-β được thêm vào môi trường nuôi cấy (p = 0,17).
 
Nghiên cứu cho thấy rằng tỷ lệ trưởng thành và thụ tinh của noãn cao hơn đã được quan sát thấy sau khi áp dụng môi trường tự chế có bổ sung GDF9-β. Do đó, sự kết hợp này có thể được khuyến nghị như một phương pháp thay thế cho các quy trình IVM lâm sàng.
 
Tài liệu tham khảo: Mehdi Mohsenzadeh, Mohammad Ali Khalili, Fatemeh Anbari và cộng sự. High efficiency of homemade culture medium supplemented with GDF9-β in human oocytes for rescue in vitro maturation. Clin Exp Reprod Med. 2022.

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

New World Saigon Hotel (Số 76 Lê Lai, Phường Bến Nghé, Quận 1, ...

Năm 2020

Caravelle Hotel Saigon, chiều thứ bảy 20.4 và chủ nhật 21.4.2024

Năm 2020

Khách sạn Caravelle Saigon, Chủ nhật 21.1.2024 (9:00 - 11:15)

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Sách ra mắt ngày 9 . 3 . 2024 và gửi đến quý hội viên trước ...

Y học sinh sản số 68 ra mắt ngày 25 . 12 . 2023 và gửi đến quý ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK