Tin tức
on Friday 30-12-2022 8:01am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Phan Thanh Chi - IVFMD Tân Bình
Vô sinh ở nữ giới thường liên quan đến các vấn đề phóng noãn, ống dẫn trứng, vùng chậu và tử cung. Trong đó, tỷ lệ rối loạn phóng noãn kèm rối loạn kinh nguyệt chiếm đến 30%. Thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) chính là giải pháp cho các trường hợp này mặc dù quá trình điều trị lâu dài. Thật vậy, để tăng tỷ lệ thụ thai thì kích thích buồng trứng nhằm tạo ra nhiều noãn trưởng thành là một trong những bước quan trọng. Cụ thể, các chế phẩm gonadotropin ngoại sinh hoặc tăng tiết gonadotropin nội sinh thông qua việc sử dụng thuốc gây rụng trứng được sử dụng để kích thích buồng trứng.
Quá trình sinh noãn là một quá trình phức tạp và bé gái sinh ra sẽ có một số lượng nang noãn nhất định. Số lượng này không tăng lên mà giảm dần theo độ tuổi phát triển của người phụ nữ. Do vậy, số lượng nang noãn được xem là dấu hiệu sinh học cho tuổi sinh sản. Mặc dù, độ chính xác không cao nhưng số lượng nang noãn thu được ở mỗi chu kỳ IVF có thể dự đoán thời điểm bắt đầu mãn kinh. Thật vậy, vào giai đoạn mãn kinh, buồng trứng chỉ còn khoảng 1000 nang noãn và quá trình kích thích buồng trứng có thể đẩy nhanh thời gian bắt đầu mãn kinh. Tuy tác dụng phụ ít nghiêm trọng hơn so với ung thư, nhưng liệu pháp gonadotropin có thể có những tác động tiềm tàng gây mãn kinh sớm. Mãn kinh sớm sẽ hạn chế khả năng sinh sản, ảnh hưởng đến sức khỏe tình dục, tăng nguy cơ rối loạn tim mạch và chuyển hóa.
Nhiều bệnh nhân thực hiện IVF trong những năm 2000 và đầu những năm 2010 hiện đã đến tuổi mãn kinh. Theo đó, dường như chưa có nghiên cứu nào về tác dụng lâu dài của IVF đối với sự khởi phát và các triệu chứng của thời kỳ mãn kinh. Dữ liệu ở Indonesia cho biết đến năm 2020, dân số phụ nữ mãn kinh ở độ tuổi 40–65 tăng thêm 11,4% từ 5,5% vào năm 1980. Nhận thấy mức độ nghiêm trọng của vấn đề, mục đích của nghiên cứu này là phân tích sự khác biệt về thời gian và triệu chứng mãn kinh ở phụ nữ đã trải qua IVF so với phụ nữ mang thai tự nhiên.
Nghiên cứu cắt ngang này được thực hiện từ tháng 8 năm 2020 đến tháng 8 năm 2021 tại Cipto Mangunkusumo National Referral Hospital (RSCM) Jakarta. Theo công thức của Slovin, nghiên cứu chia 50 người tham gia cho nhóm phụ nữ mãn kinh đã trải qua IVF và 50 người cho nhóm phụ nữ mãn kinh chưa trải qua IVF. Những người tham gia được coi là đủ điều kiện khi đáp ứng các tiêu chí sau: 1) phụ nữ trên 45 tuổi đã trải qua thời kỳ mãn kinh hoặc phàn nàn về các triệu chứng mãn kinh và chưa bao giờ trải qua IVF; 2) những phụ nữ đã trải qua IVF bằng phác đồ đối kháng. Các tiêu chí loại trừ bao gồm những phụ nữ có khối u ác tính, những phụ nữ không sử dụng phác đồ đối kháng và những phụ nữ không muốn tham gia nghiên cứu.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, IVF không có tác động đáng kể đến các triệu chứng tâm lý hoặc cơ thể ở cả hai nhóm (p>0,05). Các triệu chứng tâm lý như tâm trạng chán nản, cáu kỉnh, lo lắng và kiệt quệ về thể chất và tinh thần. Các triệu chứng cơ thể như bốc hỏa, khó chịu ở mạch vành, khó ngủ và các vấn đề về cơ và khớp. Tuy nhiên, nó có ảnh hưởng đáng kể đến các triệu chứng niệu sinh dục (p<0,05) như các vấn đề về tình dục, các vấn đề về bàng quang và khô âm đạo. Ngoài ra, có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tuổi bắt đầu mãn kinh giữa nhóm IVF và nhóm không IVF (tương ứng là 49,84 so với 50,66, p<0,05).
Tóm lại, có một mối tương quan đáng kể giữa điều trị IVF và các triệu chứng niệu sinh dục trong thời kỳ mãn kinh. Hơn nữa, tuổi bắt đầu mãn kinh ở bệnh nhân IVF được phát hiện là sớm hơn. Tuy nhiên, sự khác biệt không có ý nghĩa lâm sàng và cần nghiên cứu thêm.
Nguồn: Muharam R, Sumapraja K, Pratama G, Azyati M, Prabowo KA. Impact of IVF on the Timing and Symptoms of Menopause. Int J Womens Health. 2021 Sep 22;13:889-893. doi: 10.2147/IJWH.S322718. PMID: 34588821; PMCID: PMC8473711.
Vô sinh ở nữ giới thường liên quan đến các vấn đề phóng noãn, ống dẫn trứng, vùng chậu và tử cung. Trong đó, tỷ lệ rối loạn phóng noãn kèm rối loạn kinh nguyệt chiếm đến 30%. Thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) chính là giải pháp cho các trường hợp này mặc dù quá trình điều trị lâu dài. Thật vậy, để tăng tỷ lệ thụ thai thì kích thích buồng trứng nhằm tạo ra nhiều noãn trưởng thành là một trong những bước quan trọng. Cụ thể, các chế phẩm gonadotropin ngoại sinh hoặc tăng tiết gonadotropin nội sinh thông qua việc sử dụng thuốc gây rụng trứng được sử dụng để kích thích buồng trứng.
Quá trình sinh noãn là một quá trình phức tạp và bé gái sinh ra sẽ có một số lượng nang noãn nhất định. Số lượng này không tăng lên mà giảm dần theo độ tuổi phát triển của người phụ nữ. Do vậy, số lượng nang noãn được xem là dấu hiệu sinh học cho tuổi sinh sản. Mặc dù, độ chính xác không cao nhưng số lượng nang noãn thu được ở mỗi chu kỳ IVF có thể dự đoán thời điểm bắt đầu mãn kinh. Thật vậy, vào giai đoạn mãn kinh, buồng trứng chỉ còn khoảng 1000 nang noãn và quá trình kích thích buồng trứng có thể đẩy nhanh thời gian bắt đầu mãn kinh. Tuy tác dụng phụ ít nghiêm trọng hơn so với ung thư, nhưng liệu pháp gonadotropin có thể có những tác động tiềm tàng gây mãn kinh sớm. Mãn kinh sớm sẽ hạn chế khả năng sinh sản, ảnh hưởng đến sức khỏe tình dục, tăng nguy cơ rối loạn tim mạch và chuyển hóa.
Nhiều bệnh nhân thực hiện IVF trong những năm 2000 và đầu những năm 2010 hiện đã đến tuổi mãn kinh. Theo đó, dường như chưa có nghiên cứu nào về tác dụng lâu dài của IVF đối với sự khởi phát và các triệu chứng của thời kỳ mãn kinh. Dữ liệu ở Indonesia cho biết đến năm 2020, dân số phụ nữ mãn kinh ở độ tuổi 40–65 tăng thêm 11,4% từ 5,5% vào năm 1980. Nhận thấy mức độ nghiêm trọng của vấn đề, mục đích của nghiên cứu này là phân tích sự khác biệt về thời gian và triệu chứng mãn kinh ở phụ nữ đã trải qua IVF so với phụ nữ mang thai tự nhiên.
Nghiên cứu cắt ngang này được thực hiện từ tháng 8 năm 2020 đến tháng 8 năm 2021 tại Cipto Mangunkusumo National Referral Hospital (RSCM) Jakarta. Theo công thức của Slovin, nghiên cứu chia 50 người tham gia cho nhóm phụ nữ mãn kinh đã trải qua IVF và 50 người cho nhóm phụ nữ mãn kinh chưa trải qua IVF. Những người tham gia được coi là đủ điều kiện khi đáp ứng các tiêu chí sau: 1) phụ nữ trên 45 tuổi đã trải qua thời kỳ mãn kinh hoặc phàn nàn về các triệu chứng mãn kinh và chưa bao giờ trải qua IVF; 2) những phụ nữ đã trải qua IVF bằng phác đồ đối kháng. Các tiêu chí loại trừ bao gồm những phụ nữ có khối u ác tính, những phụ nữ không sử dụng phác đồ đối kháng và những phụ nữ không muốn tham gia nghiên cứu.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, IVF không có tác động đáng kể đến các triệu chứng tâm lý hoặc cơ thể ở cả hai nhóm (p>0,05). Các triệu chứng tâm lý như tâm trạng chán nản, cáu kỉnh, lo lắng và kiệt quệ về thể chất và tinh thần. Các triệu chứng cơ thể như bốc hỏa, khó chịu ở mạch vành, khó ngủ và các vấn đề về cơ và khớp. Tuy nhiên, nó có ảnh hưởng đáng kể đến các triệu chứng niệu sinh dục (p<0,05) như các vấn đề về tình dục, các vấn đề về bàng quang và khô âm đạo. Ngoài ra, có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tuổi bắt đầu mãn kinh giữa nhóm IVF và nhóm không IVF (tương ứng là 49,84 so với 50,66, p<0,05).
Tóm lại, có một mối tương quan đáng kể giữa điều trị IVF và các triệu chứng niệu sinh dục trong thời kỳ mãn kinh. Hơn nữa, tuổi bắt đầu mãn kinh ở bệnh nhân IVF được phát hiện là sớm hơn. Tuy nhiên, sự khác biệt không có ý nghĩa lâm sàng và cần nghiên cứu thêm.
Nguồn: Muharam R, Sumapraja K, Pratama G, Azyati M, Prabowo KA. Impact of IVF on the Timing and Symptoms of Menopause. Int J Womens Health. 2021 Sep 22;13:889-893. doi: 10.2147/IJWH.S322718. PMID: 34588821; PMCID: PMC8473711.
Từ khóa: Tác động của thụ tinh trong ống nghiệm đến thời điểm và các triệu chứng của thời kỳ mãn kinh
Các tin khác cùng chuyên mục:
Rapamycin giúp giảm tổn thương DNA, cải thiện khả năng phát triển của noãn người trong IVM - Ngày đăng: 27-12-2022
Tác động của chỉ số khối cơ thể cao lên tỷ lệ trẻ sinh sống tích lũy và an toàn sản khoa ở phụ nữ thụ tinh ống nghiệm - Ngày đăng: 27-12-2022
So sánh hiệu quả của hai phương pháp MACS và PICSI để lựa chọn tinh trùng trong các trường hợp vô sinh không rõ nguyên nhân - Ngày đăng: 26-12-2022
Tổng quan hệ thống và phân tích gộp về tác động của điều trị giãn tĩnh mạch thừng tinh đối với các thông số của tinh dịch ở nam giới vô sinh - Ngày đăng: 26-12-2022
Mối tương quan giữa phôi bào bị loại bỏ trong quá trình phát triển của phôi theo dõi bằng hệ thống time-lapse và phôi nguyên bội - Ngày đăng: 26-12-2022
Chỉ số BMI thấp ảnh hưởng xấu đến kết quả thực hiện iui: một nghiên cứu hồi cứu trên 13,745 chu kỳ - Ngày đăng: 26-12-2022
So sánh sự methyl hóa DNA trên phôi khi nuôi cấy liên tục và không liên tục - Ngày đăng: 26-12-2022
Sự phân bố của các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản lên tổng số trẻ sinh tại Úc: các xu hướng hiện hành và đặc điểm nhân khẩu học của bố mẹ - Ngày đăng: 26-12-2022
Kết quả lâm sàng khi chuyển phôi chất lượng kém cùng với phôi chất lượng tốt: một tổng quan hệ thống và phân tích gộp - Ngày đăng: 24-12-2022
Sự hiện diện của Adenomyosis trên MRI làm giảm tỉ lệ sinh sống trong các chu kỳ ART đối với bệnh lạc nội mạc tử cung - Ngày đăng: 24-12-2022
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK