Tin tức
on Friday 30-12-2022 8:25am
Danh mục: Tin quốc tế
Ths. Trương Văn Hải –IVFMD BMT.
Việc sử dụng phương pháp tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI) trong quá trình điều trị thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) ban đầu được dành riêng cho các cặp vợ chồng bị vô sinh do nam giới và nhằm mục đích cải thiện tỷ lệ thụ tinh với tinh trùng chất lượng thấp. Ngày nay các chỉ định sử dụng phương pháp này đã được mở rộng và được sử dụng trong khoảng một nửa số phương pháp điều trị IVF trên toàn thế giới. Trái ngược với IVF thông thường, trong đó hàng ngàn tế bào tinh trùng cạnh tranh để thụ tinh và chọn lọc tự nhiên xảy ra, trong ICSI, tinh trùng được nhà phôi học lựa chọn chỉ dựa trên khả năng vận động và hình thái. Trong những năm gần đây, một số phương pháp đã được phát triển, được thiết kế để hỗ trợ việc lựa chọn tinh trùng được tiêm dựa trên các tiêu chí bổ sung. Một phương pháp như vậy là ICSI liên kết axit hyaluronic (HA-ICSI). Phương pháp này dựa trên nghiên cứu cho thấy rằng tinh trùng trưởng thành và có cấu trúc lành mạnh liên kết với axit hyaluronic có nhiều trong khối OCC của noãn, và do đó được cho là có khả năng thụ tinh cao hơn. Hai loại HA-ICSI bao gồm các phương pháp ICSI (PICSI) sinh lý © và SpermSlow ©. Với việc sử dụng đĩa PICSI, tinh trùng được đặt trên một đĩa có các chấm hyaluronan và các tế bào tinh trùng liên kết được chọn cho ICSI. Với SpermSlow, một môi trường nhớt có chứa HA được sử dụng để tạo điều kiện thuận lợi cho việc lựa chọn tinh trùng.
Mặc dù đã được sử dụng trong lâm sàng hơn một thập kỷ, HA-ICSI vẫn chưa được nghiên cứu kỹ lưỡng. Một số nghiên cứu đã chứng minh tỷ lệ mang thai cao hơn và tỷ lệ sảy thai thấp hơn với HA-ICSI. Các nghiên cứu khác làm sáng tỏ ảnh hưởng của các thử nghiệm liên kết axit hyaluronic đối với quá trình thụ tinh và chất lượng phôi cho thấy kết quả không nhất quán.
Sự không nhất quán của bằng chứng có lẽ là kết quả của một số vấn đề về phương pháp: Đầu tiên, việc ghi danh các cặp vợ chồng đang trải qua ICSI từ quần thể IVF nói chung, không được chọn cho các chỉ định cụ thể, có thể đánh giá thấp lợi thế tiềm năng của HA-ICSI. Các vấn đề khác bắt nguồn từ việc so sánh hai nhóm cặp vợ chồng khác nhau trải qua IVF, với nhiều yếu tố gây nhiễu tiềm ẩn ảnh hưởng đến kết quả điều trị, không phải tất cả đều có thể điều chỉnh được. Để khắc phục điều này, nghiên cứu này so sánh quá trình thụ tinh và phát triển phôi giữa ICSI và HA-ICSI trong thí nghiệm chia noãn.
Nghiên cứu hồi cứu này bao gồm các chu kỳ điều trị IVF tại Hadassah Mount Scopus từ tháng 1 năm 2017 đến tháng 4 năm 2020, trong đó các noãn được thụ tinh ngẫu nhiên bằng cả ICSI và PICSI. Các chu kỳ sử dụng một phương pháp duy nhất, ICSI hoặc PICSI đã bị loại trừ. Trong suốt thời gian nghiên cứu, 47 chu kỳ IVF sử dụng cả ICSI và PICSI cho cho các trường hợp chia noãn. Tổng cộng có 257 noãn được thụ tinh với PICSI và 294 với ICSI tiêu chuẩn. Không có trường hợp nào dùng nhiều chu kỳ cho cùng một bệnh nhân. Số lượng noãn trung bình trên mỗi chu kỳ được phân bổ cho hai phương pháp là tương tự nhau. Hai chỉ định điều trị IVF phổ biến nhất trong nhóm nghiên cứu là vô sinh do yếu tố nam giới và vô sinh không rõ nguyên nhân.
Kết quả: nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ thụ tinh và tỷ lệ phôi hữu dụng để chuyển hoặc trữ lạnh ở nhóm PICSI cao hơn so với nhóm ICSI tiêu chuẩn. Cụ thể, tỷ lệ thụ tinh ở nhóm PICSI là 82,8 ± 21, so với 70,7 ± 25 ở nhóm ICSI tiêu chuẩn. Tỷ lệ phôi hữu dụng ở nhóm PICSI là 51,1 ± 33, so với 38,1 ± 27 ở nhóm ICSI tiêu chuẩn (p=0.008).
Trong 44/45 chu kỳ được nghiên cứu có phôi để chuyển trong chu kỳ đầu tiên. Phôi chất lượng tốt nhất được chọn cho lần chuyển đầu tiên là phôi từ PICSI là 23 (53%) trường hợp so với 12 (28%) trường hợp chọn phôi ICSI. 9 lần chuyển còn lại sử dụng phôi của cả hai phương pháp. Khi so sánh lần lượt giữa nhóm chỉ chuyển phôi từ PICSI và ICSI tiêu chuẩn, không có sự khác biệt về tỷ lệ thai sinh hóa (lần lượt là 31,8% so với 46,2%; p=0.396) và thai lâm sàng (lần lượt là 27,3% so với 30,8%, p=1).
Kết luận: Nghiên cứu này so sánh kết quả phôi học giữa ICSI thông thường và PICSI ở các noãn anh chị em, đã phát hiện ra sự cải thiện đáng kể về cả tỷ lệ thụ tinh và tỷ lệ phôi hữu dụng bằng PICSI, trong một nhóm nghiên cứu được chọn đã từng thất bại trong IVF trước đó. Hầu hết các phôi được ưu tiên chuyển (phôi chất lượng tốt nhất của chu kỳ) là phôi PICSI, cho thấy chất lượng phôi có thể được cải thiện với PICSI. Tỷ lệ thai sinh hóa và thai lâm sàng không có sự khác biệt đáng kể giữa 2 nhóm nghiên cứu.
Tài liệu tham khảo:
1. Novoselsky Persky M, Hershko-Klement A, Solnica A, Bdolah Y, Hurwitz A, Ketzin El Gilad M, et al. Conventional ICSI vs. physiological selection of spermatozoa for ICSI (picsi) in sibling oocytes. Andrology. 2021 May;9(3):873–7.
Việc sử dụng phương pháp tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI) trong quá trình điều trị thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) ban đầu được dành riêng cho các cặp vợ chồng bị vô sinh do nam giới và nhằm mục đích cải thiện tỷ lệ thụ tinh với tinh trùng chất lượng thấp. Ngày nay các chỉ định sử dụng phương pháp này đã được mở rộng và được sử dụng trong khoảng một nửa số phương pháp điều trị IVF trên toàn thế giới. Trái ngược với IVF thông thường, trong đó hàng ngàn tế bào tinh trùng cạnh tranh để thụ tinh và chọn lọc tự nhiên xảy ra, trong ICSI, tinh trùng được nhà phôi học lựa chọn chỉ dựa trên khả năng vận động và hình thái. Trong những năm gần đây, một số phương pháp đã được phát triển, được thiết kế để hỗ trợ việc lựa chọn tinh trùng được tiêm dựa trên các tiêu chí bổ sung. Một phương pháp như vậy là ICSI liên kết axit hyaluronic (HA-ICSI). Phương pháp này dựa trên nghiên cứu cho thấy rằng tinh trùng trưởng thành và có cấu trúc lành mạnh liên kết với axit hyaluronic có nhiều trong khối OCC của noãn, và do đó được cho là có khả năng thụ tinh cao hơn. Hai loại HA-ICSI bao gồm các phương pháp ICSI (PICSI) sinh lý © và SpermSlow ©. Với việc sử dụng đĩa PICSI, tinh trùng được đặt trên một đĩa có các chấm hyaluronan và các tế bào tinh trùng liên kết được chọn cho ICSI. Với SpermSlow, một môi trường nhớt có chứa HA được sử dụng để tạo điều kiện thuận lợi cho việc lựa chọn tinh trùng.
Mặc dù đã được sử dụng trong lâm sàng hơn một thập kỷ, HA-ICSI vẫn chưa được nghiên cứu kỹ lưỡng. Một số nghiên cứu đã chứng minh tỷ lệ mang thai cao hơn và tỷ lệ sảy thai thấp hơn với HA-ICSI. Các nghiên cứu khác làm sáng tỏ ảnh hưởng của các thử nghiệm liên kết axit hyaluronic đối với quá trình thụ tinh và chất lượng phôi cho thấy kết quả không nhất quán.
Sự không nhất quán của bằng chứng có lẽ là kết quả của một số vấn đề về phương pháp: Đầu tiên, việc ghi danh các cặp vợ chồng đang trải qua ICSI từ quần thể IVF nói chung, không được chọn cho các chỉ định cụ thể, có thể đánh giá thấp lợi thế tiềm năng của HA-ICSI. Các vấn đề khác bắt nguồn từ việc so sánh hai nhóm cặp vợ chồng khác nhau trải qua IVF, với nhiều yếu tố gây nhiễu tiềm ẩn ảnh hưởng đến kết quả điều trị, không phải tất cả đều có thể điều chỉnh được. Để khắc phục điều này, nghiên cứu này so sánh quá trình thụ tinh và phát triển phôi giữa ICSI và HA-ICSI trong thí nghiệm chia noãn.
Nghiên cứu hồi cứu này bao gồm các chu kỳ điều trị IVF tại Hadassah Mount Scopus từ tháng 1 năm 2017 đến tháng 4 năm 2020, trong đó các noãn được thụ tinh ngẫu nhiên bằng cả ICSI và PICSI. Các chu kỳ sử dụng một phương pháp duy nhất, ICSI hoặc PICSI đã bị loại trừ. Trong suốt thời gian nghiên cứu, 47 chu kỳ IVF sử dụng cả ICSI và PICSI cho cho các trường hợp chia noãn. Tổng cộng có 257 noãn được thụ tinh với PICSI và 294 với ICSI tiêu chuẩn. Không có trường hợp nào dùng nhiều chu kỳ cho cùng một bệnh nhân. Số lượng noãn trung bình trên mỗi chu kỳ được phân bổ cho hai phương pháp là tương tự nhau. Hai chỉ định điều trị IVF phổ biến nhất trong nhóm nghiên cứu là vô sinh do yếu tố nam giới và vô sinh không rõ nguyên nhân.
Kết quả: nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ thụ tinh và tỷ lệ phôi hữu dụng để chuyển hoặc trữ lạnh ở nhóm PICSI cao hơn so với nhóm ICSI tiêu chuẩn. Cụ thể, tỷ lệ thụ tinh ở nhóm PICSI là 82,8 ± 21, so với 70,7 ± 25 ở nhóm ICSI tiêu chuẩn. Tỷ lệ phôi hữu dụng ở nhóm PICSI là 51,1 ± 33, so với 38,1 ± 27 ở nhóm ICSI tiêu chuẩn (p=0.008).
Trong 44/45 chu kỳ được nghiên cứu có phôi để chuyển trong chu kỳ đầu tiên. Phôi chất lượng tốt nhất được chọn cho lần chuyển đầu tiên là phôi từ PICSI là 23 (53%) trường hợp so với 12 (28%) trường hợp chọn phôi ICSI. 9 lần chuyển còn lại sử dụng phôi của cả hai phương pháp. Khi so sánh lần lượt giữa nhóm chỉ chuyển phôi từ PICSI và ICSI tiêu chuẩn, không có sự khác biệt về tỷ lệ thai sinh hóa (lần lượt là 31,8% so với 46,2%; p=0.396) và thai lâm sàng (lần lượt là 27,3% so với 30,8%, p=1).
Kết luận: Nghiên cứu này so sánh kết quả phôi học giữa ICSI thông thường và PICSI ở các noãn anh chị em, đã phát hiện ra sự cải thiện đáng kể về cả tỷ lệ thụ tinh và tỷ lệ phôi hữu dụng bằng PICSI, trong một nhóm nghiên cứu được chọn đã từng thất bại trong IVF trước đó. Hầu hết các phôi được ưu tiên chuyển (phôi chất lượng tốt nhất của chu kỳ) là phôi PICSI, cho thấy chất lượng phôi có thể được cải thiện với PICSI. Tỷ lệ thai sinh hóa và thai lâm sàng không có sự khác biệt đáng kể giữa 2 nhóm nghiên cứu.
Tài liệu tham khảo:
1. Novoselsky Persky M, Hershko-Klement A, Solnica A, Bdolah Y, Hurwitz A, Ketzin El Gilad M, et al. Conventional ICSI vs. physiological selection of spermatozoa for ICSI (picsi) in sibling oocytes. Andrology. 2021 May;9(3):873–7.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Mối liên quan giữa tiêu thụ caffein và rượu với kết quả IVF/ICSI: Một tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp liều lượng - phản ứng - Ngày đăng: 30-12-2022
Tác dụng có lợi của việc bổ sung hypotaurine trong môi trường chuẩn bị và đông lạnh tinh trùng người đối với hiệu quả đông lạnh và chất lượng DNA tinh trùng - Ngày đăng: 30-12-2022
Tác động của thụ tinh trong ống nghiệm đến thời điểm và các triệu chứng của thời kỳ mãn kinh - Ngày đăng: 30-12-2022
Rapamycin giúp giảm tổn thương DNA, cải thiện khả năng phát triển của noãn người trong IVM - Ngày đăng: 27-12-2022
Tác động của chỉ số khối cơ thể cao lên tỷ lệ trẻ sinh sống tích lũy và an toàn sản khoa ở phụ nữ thụ tinh ống nghiệm - Ngày đăng: 27-12-2022
So sánh hiệu quả của hai phương pháp MACS và PICSI để lựa chọn tinh trùng trong các trường hợp vô sinh không rõ nguyên nhân - Ngày đăng: 26-12-2022
Tổng quan hệ thống và phân tích gộp về tác động của điều trị giãn tĩnh mạch thừng tinh đối với các thông số của tinh dịch ở nam giới vô sinh - Ngày đăng: 26-12-2022
Mối tương quan giữa phôi bào bị loại bỏ trong quá trình phát triển của phôi theo dõi bằng hệ thống time-lapse và phôi nguyên bội - Ngày đăng: 26-12-2022
Chỉ số BMI thấp ảnh hưởng xấu đến kết quả thực hiện iui: một nghiên cứu hồi cứu trên 13,745 chu kỳ - Ngày đăng: 26-12-2022
So sánh sự methyl hóa DNA trên phôi khi nuôi cấy liên tục và không liên tục - Ngày đăng: 26-12-2022
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK