Tin tức
on Friday 30-12-2022 8:28am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Vũ Đoan Mỹ Trinh
Kích thích buồng trứng có kiểm soát là một trong những bước quan trọng trong điều trị hiếm muộn nhằm mục đích tạo được nhiều noãn cho mỗi lần chọc hút, tối đa hóa sự thành công của chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm. Tuy nhiên, số lượng noãn thu được nhiều cũng liên quan đến nguy cơ mắc hội chứng quá kích buồng trứng (OHSS) cao hơn. Kết quả chính được quan tâm hàng đầu để đánh giá sự thành công trong các chu kỳ điều trị là tỉ lệ trẻ sinh sống (LBR), do đó, hiện nay hầu hết các nghiên cứu đều tập trung vào mối liên hệ giữa số lượng noãn thu được và tỉ lệ thai lâm sàng, có rất ít các nghiên cứu phân tích ảnh hưởng của số lượng noãn thu được với tỷ lệ phôi tốt (top quality embryo – TQE). Vì vậy, nhóm nghiên cứu của Adva Aizer đã thực hiện nghiên cứu này nhằm đánh giá mối tương quan giữa số lượng noãn thu được và tỷ lệ TQE, phôi sẽ được đánh giá hình thái theo số lượng noãn.
Đây là một nghiên cứu hồi cứu bao gồm 1639 bệnh nhân đã trải qua 2263 chu kỳ IVF hoặc ICSI chọc hút từ năm 2016 đến năm 2019. Bệnh nhân được phân thành bốn nhóm theo số lượng noãn chọc hút được: 1–3 (nhóm A), 4–9 (nhóm B), 10–14 (nhóm C), hoặc > 15 noãn (nhóm D). Một phân loại khác là theo tuổi bệnh nhân <35, 35–40 và > 40 tuổi. Phôi được nuôi đến giai đoạn phôi nang và được đánh giá hình thái vào ngày 3 hoặc ngày 5. Về mặt hình thái, TQE được định nghĩa là những phôi đủ điều kiện để chuyển hoặc đông lạnh.
Kết quả cho thấy, đối với tất cả các phân nhóm tuổi, có một mối tương quan tiêu cực đã được quan sát thấy giữa số lượng noãn chọc hút được và tỷ lệ TQE (lần lượt là 56,1%, 43,6%, 35,9% và 34,3% tương ứng đối với nhóm A, B, C, D). Mặt khác, tỷ lệ TQE đã tăng lên đáng kể khi phụ nữ lớn tuổi hơn, tỷ lệ TQE tăng từ 36,1% ở phụ nữ trẻ (<35 tuổi) lên 40,3% ở phụ nữ 35–40 tuổi lên 42,5% ở bệnh nhân lớn tuổi (> 40 tuổi). Nghiên cứu nhận thấy tỷ lệ TQE giảm - 0,5% cho mỗi noãn chọc hút được, trong khi tỷ lệ TQE tăng lên +0,7% khi tuổi của phụ nữ tăng thêm 1 tuổi.
Nhìn chung, nghiên cứu cho thấy ở phụ nữ trẻ có thể thu được nhiều noãn hơn bao gồm cả noãn có chất lượng trung bình hoặc thấp, phụ nữ lớn tuổi có số lượng noãn thu được ít hơn tuy nhiên có chất lượng tốt do đó tỷ lệ TQE so với số lượng noãn thu được của họ cao hơn.
Tài liệu tham khảo: Aizer, Adva, et al. "Is there any association between the number of oocytes retrieved, women age, and embryo development?." Reproductive Sciences 28.7 (2021): 1890-1900.
Kích thích buồng trứng có kiểm soát là một trong những bước quan trọng trong điều trị hiếm muộn nhằm mục đích tạo được nhiều noãn cho mỗi lần chọc hút, tối đa hóa sự thành công của chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm. Tuy nhiên, số lượng noãn thu được nhiều cũng liên quan đến nguy cơ mắc hội chứng quá kích buồng trứng (OHSS) cao hơn. Kết quả chính được quan tâm hàng đầu để đánh giá sự thành công trong các chu kỳ điều trị là tỉ lệ trẻ sinh sống (LBR), do đó, hiện nay hầu hết các nghiên cứu đều tập trung vào mối liên hệ giữa số lượng noãn thu được và tỉ lệ thai lâm sàng, có rất ít các nghiên cứu phân tích ảnh hưởng của số lượng noãn thu được với tỷ lệ phôi tốt (top quality embryo – TQE). Vì vậy, nhóm nghiên cứu của Adva Aizer đã thực hiện nghiên cứu này nhằm đánh giá mối tương quan giữa số lượng noãn thu được và tỷ lệ TQE, phôi sẽ được đánh giá hình thái theo số lượng noãn.
Đây là một nghiên cứu hồi cứu bao gồm 1639 bệnh nhân đã trải qua 2263 chu kỳ IVF hoặc ICSI chọc hút từ năm 2016 đến năm 2019. Bệnh nhân được phân thành bốn nhóm theo số lượng noãn chọc hút được: 1–3 (nhóm A), 4–9 (nhóm B), 10–14 (nhóm C), hoặc > 15 noãn (nhóm D). Một phân loại khác là theo tuổi bệnh nhân <35, 35–40 và > 40 tuổi. Phôi được nuôi đến giai đoạn phôi nang và được đánh giá hình thái vào ngày 3 hoặc ngày 5. Về mặt hình thái, TQE được định nghĩa là những phôi đủ điều kiện để chuyển hoặc đông lạnh.
Kết quả cho thấy, đối với tất cả các phân nhóm tuổi, có một mối tương quan tiêu cực đã được quan sát thấy giữa số lượng noãn chọc hút được và tỷ lệ TQE (lần lượt là 56,1%, 43,6%, 35,9% và 34,3% tương ứng đối với nhóm A, B, C, D). Mặt khác, tỷ lệ TQE đã tăng lên đáng kể khi phụ nữ lớn tuổi hơn, tỷ lệ TQE tăng từ 36,1% ở phụ nữ trẻ (<35 tuổi) lên 40,3% ở phụ nữ 35–40 tuổi lên 42,5% ở bệnh nhân lớn tuổi (> 40 tuổi). Nghiên cứu nhận thấy tỷ lệ TQE giảm - 0,5% cho mỗi noãn chọc hút được, trong khi tỷ lệ TQE tăng lên +0,7% khi tuổi của phụ nữ tăng thêm 1 tuổi.
Nhìn chung, nghiên cứu cho thấy ở phụ nữ trẻ có thể thu được nhiều noãn hơn bao gồm cả noãn có chất lượng trung bình hoặc thấp, phụ nữ lớn tuổi có số lượng noãn thu được ít hơn tuy nhiên có chất lượng tốt do đó tỷ lệ TQE so với số lượng noãn thu được của họ cao hơn.
Tài liệu tham khảo: Aizer, Adva, et al. "Is there any association between the number of oocytes retrieved, women age, and embryo development?." Reproductive Sciences 28.7 (2021): 1890-1900.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Dầu phủ trong hệ thống nuôi cấy phôi: Một phân tích so sánh - Ngày đăng: 30-12-2022
So sánh ICSI tiêu chuẩn so với ICSI có chọn lọc tinh trùng dựa trên sinh lý (picsi) trong thử nghiệm chia noãn - Ngày đăng: 30-12-2022
Mối liên quan giữa tiêu thụ caffein và rượu với kết quả IVF/ICSI: Một tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp liều lượng - phản ứng - Ngày đăng: 30-12-2022
Tác dụng có lợi của việc bổ sung hypotaurine trong môi trường chuẩn bị và đông lạnh tinh trùng người đối với hiệu quả đông lạnh và chất lượng DNA tinh trùng - Ngày đăng: 30-12-2022
Tác động của thụ tinh trong ống nghiệm đến thời điểm và các triệu chứng của thời kỳ mãn kinh - Ngày đăng: 30-12-2022
Rapamycin giúp giảm tổn thương DNA, cải thiện khả năng phát triển của noãn người trong IVM - Ngày đăng: 27-12-2022
Tác động của chỉ số khối cơ thể cao lên tỷ lệ trẻ sinh sống tích lũy và an toàn sản khoa ở phụ nữ thụ tinh ống nghiệm - Ngày đăng: 27-12-2022
So sánh hiệu quả của hai phương pháp MACS và PICSI để lựa chọn tinh trùng trong các trường hợp vô sinh không rõ nguyên nhân - Ngày đăng: 26-12-2022
Tổng quan hệ thống và phân tích gộp về tác động của điều trị giãn tĩnh mạch thừng tinh đối với các thông số của tinh dịch ở nam giới vô sinh - Ngày đăng: 26-12-2022
Mối tương quan giữa phôi bào bị loại bỏ trong quá trình phát triển của phôi theo dõi bằng hệ thống time-lapse và phôi nguyên bội - Ngày đăng: 26-12-2022
Chỉ số BMI thấp ảnh hưởng xấu đến kết quả thực hiện iui: một nghiên cứu hồi cứu trên 13,745 chu kỳ - Ngày đăng: 26-12-2022
So sánh sự methyl hóa DNA trên phôi khi nuôi cấy liên tục và không liên tục - Ngày đăng: 26-12-2022
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK