Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Tuesday 08-11-2022 8:19am
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
CVPH. Phạm Duy Tùng – IVFMD Tân Bình

Đông lạnh noãn chủ động (Planned oocyte cryopreservation - POC) những năm gần đây nhận được sự quan tâm rất lớn, đặc biệt đối với phụ nữ muốn trì hoãn độ tuổi sinh sản. Nhờ sự ra đời của kỹ thuật đông lạnh bằng phương pháp thuỷ tinh hoá, giúp cải thiện tỷ lệ sống của noãn sau rã đông, tỷ lệ thụ tinh cũng như tỷ lệ thai của POC cũng dần được các hiệp hội sinh sản uy tín tại châu Âu (ESHRE) và Hoa Kỳ (ASRM) hậu thuẫn. Từ đó, số bệnh nhân thực hiện POC đã tăng lên đáng kể trong thập kỷ qua. Mặc dù POC đã trở nên phổ biến nhưng các nghiên cứu trước đây về kết quả lâm sàng của POC vẫn còn nhiều hạn chế về cỡ mẫu nghiên cứu cũng như thời gian theo dõi sau khi noãn được sử dụng. Chưa kể đến việc có khoảng 20-48% số bệnh nhân nữ có con tự nhiên hoặc thực hiện hỗ trợ sinh sản sau khi thực hiện POC mà không sử dụng những noãn đông lạnh trước đó. Điều này khiến kết quả từ việc thực hiện POC chưa thực sự rõ ràng, gây khó khăn trong quá trình tư vấn. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá kết quả từ các chu kỳ thực hiện POC với khoảng một phần ba số bệnh nhân thực hiện ở độ tuổi từ 40-41.
 
Hồi cứu đơn trung tâm được thực hiện trên dữ liệu của các phụ nữ thực hiện POC có độ tuổi từ 30-41, kết quả lâm sàng được thu thập khi bệnh nhân thực hiện rã đông noãn tại trung tâm hoặc vận chuyển đến một trung tâm khác. Dữ liệu chỉ giới hạn đối với các noãn trưởng thành.
 
Dữ liệu trong hồi cứu được lấy từ 446 bệnh nhân với 656 chu kỳ POC, hầu hết bệnh nhân thực hiện 1 chu kỳ POC (312 bệnh nhân ~70%), 105 (23%) bệnh nhân thực hiện 2 chu kỳ và 29 (7%) bệnh nhân thực hiện từ 3 chu kỳ trở lên. Độ tuổi trung bình của bệnh nhân khi thực hiện chu kỳ POC đầu tiên là 37,9 ± 2,0 (từ 33-41 tuổi), với số noãn trữ lạnh trung bình là 10,3 ± 8,2. Khi tính tổng tất cả các chu kỳ, có 5786 noãn trưởng thành được trữ đông và số noãn trung bình của mỗi bệnh nhân là 13,0 ± 8,2. Đến thời điểm kết thúc nghiên cứu, có 57 bệnh nhân đến thực hiện rã noãn (độ tuổi trung bình 43,3 ± 2,1 (38–49)), tất cả đều độc thân và chưa từng có con khi thực hiện POC. Đến thời điểm rã đông noãn, 61% đã có chồng và 39% sử dụng mẫu tinh trùng hiến và 11 bệnh nhân (chiếm 19%) trong số đó đã có 1 đến 2 con. Có 41 bệnh nhân (72%) đã cố gắng có thai bằng noãn tươi trước khi quyết định rã đông noãn. Có 34 bệnh nhân vận chuyển noãn đến các trung tâm khác để sử dụng. 389 bệnh nhân còn lại tiếp tục trữ đông tại trung tâm.
 
Đa số bệnh nhân chọn phương án rã đông noãn của họ thành nhiều chu kỳ để sử dụng, cụ thể có 28 bệnh nhân rã hết trong 1 chu kỳ, 14 bệnh nhân chia làm 2 và 12 bệnh nhân chia thành 3-5 chu kỳ. Với trung bình số noãn rã trong mỗi chu kỳ là 5,3 ± 3,1 ở chu kỳ đầu, 5,6 ± 3,9 ở chu kỳ hai và 4,0 ± 1,9 ở chu kỳ ba. Tỷ lệ sống trung bình của noãn sau rã đông là 69% và tỷ lệ thụ tinh trung bình ở nhóm noãn rã là 65%. Nếu có phôi phù hợp, tất cả bệnh nhân sẽ được chuyển phôi tươi, chỉ có 4 trường hợp có phôi để trữ lạnh sau khi chuyển phôi tươi và những phôi này sẽ được chuyển vào các chu kỳ sau.
 
Số phôi chuyển trung bình của mỗi bệnh nhân là 2,4 ± 2,1 (từ 0-9 phôi) trong tất cả các chu kỳ điều trị. Mỗi bệnh nhân có 1,1 ± 1,5 phôi tốt ngày 3 hoặc ngày 5 dựa theo đánh giá hình thái.
Tại thời điểm kết thúc nghiên cứu, 49 bệnh nhân đã hoành thành điều trị với noãn đông lạnh (hết noãn để sử dụng (36 bệnh nhân) hoặc có trẻ sinh sống (13 bệnh nhân)). Trong 13 bệnh nhân có trẻ sinh sống có 11 trường hợp đơn thai và 2 trường hợp sinh đôi. Không có trường hợp dị tật bẩm sinh nào được ghi nhận trong thai kỳ đến khi trẻ được 1 tháng tuổi.
Khi phân tích theo nhóm tuổi, nhóm nhận thấy chỉ 1 trong số 11 bệnh nhân trên 40 tuổi tại thời điểm thực hiện POC có trẻ sinh sống (chiếm 9%) so với 32% ở nhóm trẻ hơn 40 tuổi. Tuy nhiên kết quả này không có ý nghĩa thống kê (p=0,27) do cỡ mẫu quá nhỏ.
Khi thực hiện so sánh giữa nhóm có trẻ sinh sống và nhóm không, nhóm nghiên cứu nhận thấy sự khác biệt đáng kể về số lượng noãn trữ đông giữa 2 nhóm. Trong đó, nhóm có trẻ sinh sống có số lượng noãn đông lạnh nhiều hơn đáng kể 19,9 ± 13,9 so với 13,0 ± 9,2 (p=0,019).
 
Mặc dù là một xu hướng tại các nước phát triển nhưng nhìn chung đến nay POC vẫn chưa được nhiều bệnh nhân sử dụng, và do đó thiếu đi các thông tin cần thiết để có thể tư vấn cho bệnh nhân về việc cân nhắc sử dụng POC. Nghiên cứu tập trung vào ứng dụng của POC tại Isarel, cho thấy một số kết quả về việc sử dụng POC trong bảo tồn khả năng sinh sản và các kết quả về trẻ sinh sống có thể cân nhắc.
 
Nghiên cứu này có thời gian theo dõi chỉ 2 năm, và do đó có thể khiến các số liệu cho thấy việc sử dụng POC không thực sự cần thiết khi mà số lượng bệnh nhân quay trở lại sử dụng noãn trữ lạnh tương đối thấp. Chưa kể đến việc hầu hết bệnh nhân đều sử dụng các biện pháp khác để có con trước khi quay lại sử dụng noãn trữ lạnh. So với các báo cáo trước đây về POC, tỷ lệ sử dụng noãn đông lạnh của bệnh nhân lên đến 38% khi theo dõi trong thời gian từ 10-15 năm. Việc sử dụng POC có thể đến từ nhiều lý do, điển hình có thể kể đến là việc chưa tìm được bạn đời phù hợp, hoặc ổn định sự nghiệp, POC có thể giúp bệnh nhân trì hoãn việc có con nhưng cũng có nhiều bệnh nhân vẫn phải tìm đến tinh trùng được hiến tặng vào ngân hàng để sử dụng. Hầu hết các nghiên cứu hiện nay đều tập trung vào nhóm bệnh nhân trong độ tuổi 30, tuy nhiên, số bệnh nhân trên 40 tuổi tìm đến POC vẫn chiếm tỷ lệ khoảng 15%. Ở tuổi trên 40, tỷ lệ thành công khi sử dụng POC giảm đi một cách đáng kể (7,7% so với 33% ở nhóm từ 36-40 tuổi), kết quả này cũng tương đồng với các hiểu biết trước đây về độ tuổi người mẹ ảnh hưởng rất nhiều đến kết quả điều trị hỗ trợ sinh sản, đặc biệt khi người mẹ trên 40 tuổi. Trong nghiên cứu này, kết quả POC cũng phụ thuộc nhiều vào số lượng noãn mà bệnh nhân tích luỹ được để sử dụng. Vậy cần tư vấn cho bệnh nhân khi thực hiện POC như thế nào? Đối với những phụ nữ trong độ tuổi 30, nếu chưa muốn có con vì lý do cá nhân hoặc những lý do khác, có thể cân nhắc thực hiện POC sớm để có các kết quả tốt nhất về sau, đặc biệt khi cân nhắc tỷ lệ thành công lên đến 69% nếu thực hiện trước 35 tuổi, tỷ lệ này giảm dần đến 40 tuổi và sau 40 thì tỷ lệ thành công cực kỳ thấp.
  
Nguồn: Tsafrir A, Ben-Ami I, Eldar-Geva T, et al. Clinical outcome of planned oocyte cryopreservation at advanced age [published online ahead of print, 2022 Oct 20]. J Assist Reprod Genet. 2022;10.1007/s10815-022-02633-7. doi:10.1007/s10815-022-02633-7.

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025

Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK