Tin tức
on Wednesday 19-10-2022 7:53am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Khổng Tiết Mây Như – IVFMD
Sẩy thai liên tiếp (recurrent pregnancy loss – RPL) được định nghĩa là từ 2 lần sẩy thai bất kì trong giai đoạn thai kỳ. Trên thế giới, ít nhất 10% phụ nữ mang thai và khoảng 13% phụ nữ sau sinh bị mắc chứng rối loạn tâm lý (mental disorder) và xảy ra nhiều nhất là trầm cảm (depression). Trầm cảm sau sinh (postpartum depression – PPD) ảnh hưởng 10% phụ nữ ở Nhật Bản gây ra nhiều hậu quả tiêu cực cho mẹ và trẻ sơ sinh. Tiền sử bệnh tâm thần, béo phì, trầm cảm trong và trước khi mang thai, lo lắng khi mang thai, thu nhập thấp, các sự kiện căng thẳng trong cuộc sống và thiếu hỗ trợ xã hội được báo cáo là các yếu tố nguy cơ của PPD, thậm chí có thể dẫn đến người mẹ tự tử và bạo hành trẻ em. Hơn nữa, người ta cũng nhận thấy rằng trạng thái tinh thần của người mẹ chu sinh ảnh hưởng đến chức năng nhận thức và sự phát triển tình cảm của những đứa trẻ trong tương lai. Ngoài ra, nghiên cứu trước đây của các tác giả trong bài cũng cho thấy 15,4% bệnh nhân RPL có các triệu chứng trầm cảm (depression symptoms – DS) và rối loạn lo âu (anxiety disorder) gia tăng đáng kể về mặt lâm sàng; trong đó, 8,6% bệnh nhân thuộc nhóm RPL có trầm cảm vừa/nặng nhưng chỉ có 2,2% ở nhóm đối chứng. Bên cạnh đó, bệnh nhân RPL thứ phát có ít nhất một đứa con tương quan với nguy cơ tâm lý thấp hơn so với bệnh nhân RPL nguyên phát. Nguy cơ tự tử cũng được đặc biệt quan tâm ở phụ nữ có tiền sử sẩy thai, bệnh tâm thần nặng và trầm cảm chu sinh. Hiện nay, TTTON và chuyển phôi (IVF-ET) có thể gây lo lắng về thể chất khó chịu và gây trầm cảm do lo lắng không chắc chắn về kết quả điều trị. Theo một số thống kê cho thấy mức độ căng thẳng cao nhất ở lần thử thai (pregnancy test – PT) trước khi mang thai so với lúc ET. Đây là nghiên cứu đầu tiên có quy mô mẫu lớn để xem xét các triệu chứng trầm cảm gia tăng trong thời kỳ mang thai và sau sinh ở bệnh nhân RPL và IVF-ET.
Nhóm tác giả đã thực hiện một nghiên cứu đoàn hệ trên toàn quốc được gọi là nghiên cứu về môi trường và trẻ em Nhật Bản (Japan environment and children’s study – JECS). Khi kiểm tra các yếu tố nguy cơ của PPD vào 1 tháng sau sinh sử dụng dữ liệu JECS (jecs-ag20160424) và phát hiện ra rằng lạc nội mạc tử cung, thống kinh và chảy máu tử cung bất thường nhưng không phải sự hiện diện của sẩy thai mà có liên quan đến PPD. Nghiên cứu này được các nhà miễn dịch sinh sản quan tâm vì cả RPL và PPD đều có liên quan đến chứng viêm trong thai kỳ. Khoảng 99.202 phụ nữ mang thai được đưa vào phân tích với số tuổi trung bình là 30,7 tuổi và ở 14,4W thai.
-K6 và K10: phát hiện trầm cảm điển hình và nhẹ (mood dysthymia) và thang đánh giá trầm cảm sau sinh của Edinburgh (Edinburgh postnatal depression scale – EPDS) là yếu tố trầm cảm, lo âu và mất niềm vui (anhedonia) (EPDS ≥9 = K6 ≥13 = K10 ≥20). Kết cục chính là sự gia tăng DS (K6 và EPDS) trong thai kỳ và sau sinh.
-K6 được phân tích ở giai đoạn đầu thai kỳ (first trimester – MT1), giữa hoặc cuối thai kỳ (second/third trimester – MT2) và 1 năm sau sinh (C1y). EPDS thì ở 1 tháng và 6 tháng sau sinh (M1m và C6m). Trong đó, MT1 bao gồm các đặc điểm xã hội học, lịch sử y tế, chi tiết tất cả các lần mang thai và thói quen tập thể dục; MT2 gồm trình độ học vấn, thu nhập hàng năm của hộ gia đình và chi tiết về lối sống; C6m là sức khỏe của người mẹ và tình trạng hôn nhân.
Kết quả cho thấy:
-Nguy cơ phát triển DS cao hơn đáng kể ở nhóm không có trẻ sinh sống (aHR=1,11; 95% CI 1,07-1,16; P<0,001).
-M1m & C6m: tỉ lệ mắc bệnh DS cao nhất ở nhóm phụ nữ không bị sẩy thai lần lượt là 14,5% và 12,21% so với nhóm có từ 3 lần sẩy thai là 12,42% và 6,98% (P<0,001).
-MT1, MT2 và C6m: tần suất mắc bệnh ở nhóm không trải qua IVF-ET cao hơn đáng kể lần lượt là 3,57%; 3,37% và 11,8% (P<0,001).
-MT1, MT2, M1m và C6m: nhóm phụ nữ không có trẻ sinh sống cũng thể hiện tần suất mắc bệnh cao hơn nhiều (4,09%; 3,58%; 18,34% và 12,20%; P<0,001).
-MT2 và C6m: phụ nữ có nhiều trẻ sinh ra, tần suất mắc bệnh của nhóm không trải qua IVF-ET cao hơn nhóm có IVF-ET lần lượt là 3,16% và 11,52% (P<0,001).
-Mối tương quan giữa số lần sẩy thai, IVF-ET và nguy cơ phát triển DS ở phụ nữ không có trẻ sinh sống được thể hiện như sau:
+Tỉ lệ mắc bệnh DS tăng đáng kể ở phụ nữ có từ 3 lần sẩy thai ở giai đoạn giữa hoặc cuối thai kỳ, không có trẻ sinh sống (aRRs=1,97; 95% CI [1,02; 3,82]).
+Nguy cơ phát triển DS thấp hơn đối với phụ nữ có tiền căn sẩy thai 1 lần ở M1m và C6m (không có trẻ sinh sống) lần lượt là aRRs=0,92; 95% CI [0,85; 1,00] và aRRs=0,84; 95% CI [0,75; 0,93].
+IVF-ET có tương quan đến nguy cơ giảm đáng kể sự phát triển DS trong suốt thai kỳ, đặc biệt là ở M1m (aRRs=0,87; 95% CI [0,76; 0,99]) và C6m (aRRs=0,70; 95% CI [0,58; 0,84]), không có trẻ sinh sống.
-Đối với phụ nữ có trẻ sinh sống, tỉ lệ phát triển DS trong 6 tháng sau sinh giảm đáng kể ở phụ nữ đã trải qua 2 lần sẩy thai (aRRs=0,87; 95% CI [0,76; 1,00]). IVF-ET không có ảnh hưởng mang tính ý nghĩa đến nguy cơ phát triển DS trong thai kỳ và sau sinh.
Từ số liệu thống kê cho thấy, phụ nữ có tiền sử sẩy thai từ 3 lần trở lên có nguy cơ trầm cảm cao hơn trong 3 tháng giữa hoặc 3 tháng cuối thai kỳ so với phụ nữ không sẩy thai dù không có trẻ sinh sống. Những người đã từng sinh 1 bé có điểm trầm cảm thấp hơn đáng kể sau 1 năm theo dõi. Sinh con có thể làm giảm cảm giác đau khổ của những phụ nữ trải qua một lần mất thai. Tuy nhiên, đối với người có tiền sử sẩy thai từ 2 lần trở lên, cảm giác mất mát quá lớn nên tác động tích cực của việc mang thai thành công là không đủ để ngăn chặn sự khởi phát của bệnh trầm cảm. Ở bệnh nhân RPL, sự tái phát bệnh có thể tác động mạnh đến sự bất ổn về cảm xúc, đó là lý do vì sao kết quả lại khác nhau giữa một và hai hoặc nhiều lần sẩy thai. Mặt khác, IVF-ET được phát hiện có liên quan đến ít nguy cơ gia tăng các triệu chứng trầm cảm trong suốt thai kỳ và không có trẻ sinh sống. Rất nhiều báo cáo cho rằng IVF không liên quan đến nguy cơ phát triển trầm cảm trong thai kỳ. Thêm vào đó, sự hỗ trợ của bạn đời và sự chăm sóc yêu thương dịu dàng có thể được đo lường gián tiếp trên thang đo của bạo hành bằng lời nói và thể chất có tác dụng ngăn ngừa trầm cảm ở phụ nữ RPL và IVF-ET. Ở phụ nữ có nhiều trẻ sinh sống thì tiền sử và căng thẳng tâm lý dường như có xu hướng tăng khi quá trình mang thai xảy ra tiếp.
Mặc dù vậy, bài nghiên cứu vẫn còn một số hạn chế như là tỉ lệ triệu chứng trầm cảm trước khi mang thai ở phụ nữ RPL và phụ nữ vô sinh với IVF-ET là không rõ ràng vì tuần thai trung bình được đưa vào dữ liệu là 14,4W. Các thang đo khác nhau được sử dụng cho thời kỳ mang thai và sau khi sinh nên không thể so sánh mức độ phổ biến của các triệu chứng trầm cảm gia tăng giữa MT1, MT2 và C1y, M1m và C6m cũng như không chẩn đoán trầm cảm ở phụ nữ có điểm số cao và không đánh giá chứng lo âu sau sinh.
Tóm lại, đây là nghiên cứu đoàn hệ lớn nhất để chỉ ra các triệu chứng trầm cảm từ 3 tháng đầu đến 1 năm sau khi sinh. Sự hỗ trợ về tâm lý cho những phụ nữ RPL là rất cần thiết. Đặc biệt, RPL và IVF-ET không ảnh hưởng đến trầm cảm sau sinh mà IVF-ET thay vào đó làm giảm nguy cơ trầm cảm trong suốt thai kỳ và sau sinh.
Nguồn: Matsuura A.O, Ogasawara M.S, Ebara T và cộng sự. Depression symptoms during pregnancy and postpartum in patients with recurrent pregnancy loss and infertility: The Japan environment and children’s study. 2022 Jun.
Sẩy thai liên tiếp (recurrent pregnancy loss – RPL) được định nghĩa là từ 2 lần sẩy thai bất kì trong giai đoạn thai kỳ. Trên thế giới, ít nhất 10% phụ nữ mang thai và khoảng 13% phụ nữ sau sinh bị mắc chứng rối loạn tâm lý (mental disorder) và xảy ra nhiều nhất là trầm cảm (depression). Trầm cảm sau sinh (postpartum depression – PPD) ảnh hưởng 10% phụ nữ ở Nhật Bản gây ra nhiều hậu quả tiêu cực cho mẹ và trẻ sơ sinh. Tiền sử bệnh tâm thần, béo phì, trầm cảm trong và trước khi mang thai, lo lắng khi mang thai, thu nhập thấp, các sự kiện căng thẳng trong cuộc sống và thiếu hỗ trợ xã hội được báo cáo là các yếu tố nguy cơ của PPD, thậm chí có thể dẫn đến người mẹ tự tử và bạo hành trẻ em. Hơn nữa, người ta cũng nhận thấy rằng trạng thái tinh thần của người mẹ chu sinh ảnh hưởng đến chức năng nhận thức và sự phát triển tình cảm của những đứa trẻ trong tương lai. Ngoài ra, nghiên cứu trước đây của các tác giả trong bài cũng cho thấy 15,4% bệnh nhân RPL có các triệu chứng trầm cảm (depression symptoms – DS) và rối loạn lo âu (anxiety disorder) gia tăng đáng kể về mặt lâm sàng; trong đó, 8,6% bệnh nhân thuộc nhóm RPL có trầm cảm vừa/nặng nhưng chỉ có 2,2% ở nhóm đối chứng. Bên cạnh đó, bệnh nhân RPL thứ phát có ít nhất một đứa con tương quan với nguy cơ tâm lý thấp hơn so với bệnh nhân RPL nguyên phát. Nguy cơ tự tử cũng được đặc biệt quan tâm ở phụ nữ có tiền sử sẩy thai, bệnh tâm thần nặng và trầm cảm chu sinh. Hiện nay, TTTON và chuyển phôi (IVF-ET) có thể gây lo lắng về thể chất khó chịu và gây trầm cảm do lo lắng không chắc chắn về kết quả điều trị. Theo một số thống kê cho thấy mức độ căng thẳng cao nhất ở lần thử thai (pregnancy test – PT) trước khi mang thai so với lúc ET. Đây là nghiên cứu đầu tiên có quy mô mẫu lớn để xem xét các triệu chứng trầm cảm gia tăng trong thời kỳ mang thai và sau sinh ở bệnh nhân RPL và IVF-ET.
Nhóm tác giả đã thực hiện một nghiên cứu đoàn hệ trên toàn quốc được gọi là nghiên cứu về môi trường và trẻ em Nhật Bản (Japan environment and children’s study – JECS). Khi kiểm tra các yếu tố nguy cơ của PPD vào 1 tháng sau sinh sử dụng dữ liệu JECS (jecs-ag20160424) và phát hiện ra rằng lạc nội mạc tử cung, thống kinh và chảy máu tử cung bất thường nhưng không phải sự hiện diện của sẩy thai mà có liên quan đến PPD. Nghiên cứu này được các nhà miễn dịch sinh sản quan tâm vì cả RPL và PPD đều có liên quan đến chứng viêm trong thai kỳ. Khoảng 99.202 phụ nữ mang thai được đưa vào phân tích với số tuổi trung bình là 30,7 tuổi và ở 14,4W thai.
-K6 và K10: phát hiện trầm cảm điển hình và nhẹ (mood dysthymia) và thang đánh giá trầm cảm sau sinh của Edinburgh (Edinburgh postnatal depression scale – EPDS) là yếu tố trầm cảm, lo âu và mất niềm vui (anhedonia) (EPDS ≥9 = K6 ≥13 = K10 ≥20). Kết cục chính là sự gia tăng DS (K6 và EPDS) trong thai kỳ và sau sinh.
-K6 được phân tích ở giai đoạn đầu thai kỳ (first trimester – MT1), giữa hoặc cuối thai kỳ (second/third trimester – MT2) và 1 năm sau sinh (C1y). EPDS thì ở 1 tháng và 6 tháng sau sinh (M1m và C6m). Trong đó, MT1 bao gồm các đặc điểm xã hội học, lịch sử y tế, chi tiết tất cả các lần mang thai và thói quen tập thể dục; MT2 gồm trình độ học vấn, thu nhập hàng năm của hộ gia đình và chi tiết về lối sống; C6m là sức khỏe của người mẹ và tình trạng hôn nhân.
Kết quả cho thấy:
-Nguy cơ phát triển DS cao hơn đáng kể ở nhóm không có trẻ sinh sống (aHR=1,11; 95% CI 1,07-1,16; P<0,001).
-M1m & C6m: tỉ lệ mắc bệnh DS cao nhất ở nhóm phụ nữ không bị sẩy thai lần lượt là 14,5% và 12,21% so với nhóm có từ 3 lần sẩy thai là 12,42% và 6,98% (P<0,001).
-MT1, MT2 và C6m: tần suất mắc bệnh ở nhóm không trải qua IVF-ET cao hơn đáng kể lần lượt là 3,57%; 3,37% và 11,8% (P<0,001).
-MT1, MT2, M1m và C6m: nhóm phụ nữ không có trẻ sinh sống cũng thể hiện tần suất mắc bệnh cao hơn nhiều (4,09%; 3,58%; 18,34% và 12,20%; P<0,001).
-MT2 và C6m: phụ nữ có nhiều trẻ sinh ra, tần suất mắc bệnh của nhóm không trải qua IVF-ET cao hơn nhóm có IVF-ET lần lượt là 3,16% và 11,52% (P<0,001).
-Mối tương quan giữa số lần sẩy thai, IVF-ET và nguy cơ phát triển DS ở phụ nữ không có trẻ sinh sống được thể hiện như sau:
+Tỉ lệ mắc bệnh DS tăng đáng kể ở phụ nữ có từ 3 lần sẩy thai ở giai đoạn giữa hoặc cuối thai kỳ, không có trẻ sinh sống (aRRs=1,97; 95% CI [1,02; 3,82]).
+Nguy cơ phát triển DS thấp hơn đối với phụ nữ có tiền căn sẩy thai 1 lần ở M1m và C6m (không có trẻ sinh sống) lần lượt là aRRs=0,92; 95% CI [0,85; 1,00] và aRRs=0,84; 95% CI [0,75; 0,93].
+IVF-ET có tương quan đến nguy cơ giảm đáng kể sự phát triển DS trong suốt thai kỳ, đặc biệt là ở M1m (aRRs=0,87; 95% CI [0,76; 0,99]) và C6m (aRRs=0,70; 95% CI [0,58; 0,84]), không có trẻ sinh sống.
-Đối với phụ nữ có trẻ sinh sống, tỉ lệ phát triển DS trong 6 tháng sau sinh giảm đáng kể ở phụ nữ đã trải qua 2 lần sẩy thai (aRRs=0,87; 95% CI [0,76; 1,00]). IVF-ET không có ảnh hưởng mang tính ý nghĩa đến nguy cơ phát triển DS trong thai kỳ và sau sinh.
Từ số liệu thống kê cho thấy, phụ nữ có tiền sử sẩy thai từ 3 lần trở lên có nguy cơ trầm cảm cao hơn trong 3 tháng giữa hoặc 3 tháng cuối thai kỳ so với phụ nữ không sẩy thai dù không có trẻ sinh sống. Những người đã từng sinh 1 bé có điểm trầm cảm thấp hơn đáng kể sau 1 năm theo dõi. Sinh con có thể làm giảm cảm giác đau khổ của những phụ nữ trải qua một lần mất thai. Tuy nhiên, đối với người có tiền sử sẩy thai từ 2 lần trở lên, cảm giác mất mát quá lớn nên tác động tích cực của việc mang thai thành công là không đủ để ngăn chặn sự khởi phát của bệnh trầm cảm. Ở bệnh nhân RPL, sự tái phát bệnh có thể tác động mạnh đến sự bất ổn về cảm xúc, đó là lý do vì sao kết quả lại khác nhau giữa một và hai hoặc nhiều lần sẩy thai. Mặt khác, IVF-ET được phát hiện có liên quan đến ít nguy cơ gia tăng các triệu chứng trầm cảm trong suốt thai kỳ và không có trẻ sinh sống. Rất nhiều báo cáo cho rằng IVF không liên quan đến nguy cơ phát triển trầm cảm trong thai kỳ. Thêm vào đó, sự hỗ trợ của bạn đời và sự chăm sóc yêu thương dịu dàng có thể được đo lường gián tiếp trên thang đo của bạo hành bằng lời nói và thể chất có tác dụng ngăn ngừa trầm cảm ở phụ nữ RPL và IVF-ET. Ở phụ nữ có nhiều trẻ sinh sống thì tiền sử và căng thẳng tâm lý dường như có xu hướng tăng khi quá trình mang thai xảy ra tiếp.
Mặc dù vậy, bài nghiên cứu vẫn còn một số hạn chế như là tỉ lệ triệu chứng trầm cảm trước khi mang thai ở phụ nữ RPL và phụ nữ vô sinh với IVF-ET là không rõ ràng vì tuần thai trung bình được đưa vào dữ liệu là 14,4W. Các thang đo khác nhau được sử dụng cho thời kỳ mang thai và sau khi sinh nên không thể so sánh mức độ phổ biến của các triệu chứng trầm cảm gia tăng giữa MT1, MT2 và C1y, M1m và C6m cũng như không chẩn đoán trầm cảm ở phụ nữ có điểm số cao và không đánh giá chứng lo âu sau sinh.
Tóm lại, đây là nghiên cứu đoàn hệ lớn nhất để chỉ ra các triệu chứng trầm cảm từ 3 tháng đầu đến 1 năm sau khi sinh. Sự hỗ trợ về tâm lý cho những phụ nữ RPL là rất cần thiết. Đặc biệt, RPL và IVF-ET không ảnh hưởng đến trầm cảm sau sinh mà IVF-ET thay vào đó làm giảm nguy cơ trầm cảm trong suốt thai kỳ và sau sinh.
Nguồn: Matsuura A.O, Ogasawara M.S, Ebara T và cộng sự. Depression symptoms during pregnancy and postpartum in patients with recurrent pregnancy loss and infertility: The Japan environment and children’s study. 2022 Jun.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Tam thai với thai trứng: hai trường hợp báo cáo - Ngày đăng: 19-10-2022
Đa thai có liên quan đến liệu pháp điều trị vô sinh - Ngày đăng: 19-10-2022
Đánh giá thử nghiệm các phương pháp điều trị mãn kinh và vô sinh: tiêm huyết tương giàu tiểu cầu tự thân vào buồng trứng so với cytokines cô đặc có nguồn gốc từ tiểu cầu - Ngày đăng: 05-10-2022
Truyền PRP vào tử cung trước khi chuyển phôi trữ cải thiện tỉ lệ thai lâm sàng của bệnh nhân thất bại làm tổ nhiều lần - Ngày đăng: 05-10-2022
Thời điểm tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI) tối ưu sau khi chọc hút noãn: Một thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên - Ngày đăng: 05-10-2022
So sánh kiểu động học hình thái phôi giữa chu kỳ ICSI-AOA và ICSI đơn thuần - Ngày đăng: 05-10-2022
Phospholipase C zeta tương quan tới chỉ số tinh trùng tốt và sự thành công của quá trình thụ tinh ở những bệnh nhân điều trị vô sinh - Ngày đăng: 27-09-2022
Các gen in dấu H19, PEG3 và SNRPN có bị ảnh hưởng trong quá trình AOA không? - Ngày đăng: 27-09-2022
Số lượng và chức năng của tế bào NK trong tử cung ở bệnh nhân sẩy thai và thất bại làm tổ liên tiếp: một tổng quan hệ thống và phân tích gộp - Ngày đăng: 27-09-2022
Giá trị của quan sát hình ảnh thoi vô sắc kết hợp với kỹ thuật PIEZO-ICSI đến sự thụ tinh và phát triển của phôi - Ngày đăng: 24-09-2022
Ảnh hưởng của khoảng không quanh noãn đến tỷ lệ thụ tinh và sự phát triển của phôi trong kỹ thuật tiêm tinh trùng vào bào tương noãn - Ngày đăng: 24-09-2022
Kết quả thai bất lợi ở phụ nữ lạc nội mạc tử cung: Một báo cáo hệ thống và phân tích gộp - Ngày đăng: 24-09-2022
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Quinter Central Nha Trang, chiều thứ bảy 11.1.2025 (13:00 - 17:00)
Năm 2020
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK