Tin tức
on Wednesday 05-10-2022 8:10am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Khổng Tiết Mây Như – IVFMD
Huyết tương giàu tiểu cầu (Platelet-rich plasma – PRP) đại diện cho một tập hợp các tín hiệu sinh lý bao gồm hàng trăm cytokines có nguồn gốc từ tiểu cầu thu từ máu ngoại vi. Mối quan tâm đến các ứng dụng của PRP đã tăng lên trong 15 năm qua, từ năm 2016, nó đã thu hút sự chú ý đặc biệt trong sinh học sinh sản thực nghiệm. Nhiều phòng khám IVF đang cung cấp “trẻ hóa buồng trứng – ovarian rejuvenation” mặc dù đây vẫn còn là một giả định. Sự trẻ hóa trong lĩnh vực phụ khoa với lời hứa (không dùng thuốc) của nó là cải thiện chức năng buồng trứng. PRP tự thân đôi khi cũng được bơm vào buồng tử cung, nhằm mục đích tăng cường khả năng tiếp nhận của nội mạc và phôi làm tổ. PRP tiêm vào buồng trứng tham gia vào một nhóm các can thiệp chưa được kiểm tra như hormone tăng trưởng ở người, aspirin, heparin, DHEA, chất chống oxy hóa và nội soi tử cung.
Cơ sở điều trị (Therapeutic Rationale)
Tiểu cầu chứa nhiều hạt, khi kích hoạt sẽ cung cấp nhiều protein bao gồm các yếu tố tăng trưởng như có nguồn gốc từ tiểu cầu (platelet-derived growth factor - PDGF), nguyên bào sợi (fibroblast growth factor - FGF), nội mô mạch máu (vascular endothelial growth factor – VEGF), biểu mô (epidermal growth factor – EFF), chuyển đổi-beta 1 (transforming growth factor-beta 1 - TGF-β1), giống insulin (insulin-like growth factor – IGF), mô liên kết (connecting tissue growth factor – CTGF), tế bào gan (hepatocyte growth factor – HGF) và những yếu tố khác. Những yếu tố này điều phối sự phát triển của tế bào và trực tiếp sửa chữa những tổn thương mô. Đối với mô buồng trứng già hoặc bị suy giảm, các dữ liệu báo cáo cho thấy PRP có thể góp phần cải thiện tưới máu mô đệm, cho phép mở rộng đoàn hệ nang (follicle pool), chọn lọc các noãn tiềm năng và tạo ra những thai nhi đủ tháng khỏe mạnh. Trong khi PRP tiêm vào buồng trứng được xem là tiền thân của IVF thì việc tái thiết lập lại sau điều trị bằng cytokine tiểu cầu còn mang lại lợi ích ngay cả khi không tuân theo các phương pháp điều trị phức tạp. Điều này có thể do sự phân giải tạm thời của mô bất thường liên quan đến đặc điểm giảm tưới máu của buồng trứng lão hóa.
PRP tiêm vào buồng trứng: nghiên cứu trên động vật và người
Một mô hình động vật trong đó việc sử dụng 4-vinylcyclohexene dioxide trong phúc mạc như một gonadotoxin để gây suy buồng trứng (ovarian insufficiency – POI). Tiếp theo, tiêm PRP vào buồng trứng chuột và theo dõi các thay đổi tế bào cũng như sự tăng biểu hiện của các bản sao liên quan đến gene ANGPT2 và KDR thông qua real-time qPCR. Về cơ bản, tiêm PRP đã làm giảm đáng kể mức độ mất nang và phản ứng viêm. Hơn nữa, sự cải thiện về số lượng lứa đã được ghi nhận ở những động vật PRP+ so với nhóm POI không điều trị. Từ đó, nghiên cứu cho thấy PRP trong buồng trứng cũng bảo vệ các nang bình thường về hình thái khỏi bị thoái hóa, tiềm năng chống oxy hóa buồng trứng được cải thiện và tăng phát triển nang sau khi PRP làm giảm tác động có hại của noãn trong PCOS.
Sự khác biệt giữa bệnh nhân và quy trình
Nồng độ tiểu cầu và sự liên kết của cytokine dẫn xuất đều cho thấy sự khác biệt đáng kể đối với từng cá nhân, điều này đối với điều trị PRP rất quan trọng để xem xét với những bệnh nhân tiềm năng trước khi chỉ định trẻ hóa buồng trứng. Cụ thể là dữ liệu ở người được tiêm PRP vào buồng trứng (n=182) đã xác định sự khác biệt đáng kể về số lượng tiểu cầu ban đầu giữa những người đáp ứng và không đáp ứng; từ đó, xác định mối quan hệ giữa số lượng tiểu cầu và dự trữ buồng trứng sau điều trị. Đối với các trường hợp giảm tiểu cầu tuyệt đối (absolute thrombocytopenia) (PLT<100k), tư vấn chuyên khoa huyết học là thích hợp vì có nguy cơ cao trong IVF và mang thai.
Các cytokine có nguồn gốc từ tiểu cầu đã được định lượng sau khi hoạt hóa với canxi hoặc canxi/thrombin. Nồng độ cao của yếu tố tăng trưởng có nguồn gốc từ tiểu cầu, TGF được tiết ra với interleukin (IL)-4,8,13,17; yếu tố hoại tử khối u (tumor necrosis factor – TNF-α) và interferon (IFN-α). Vì vậy, không có cytokine nào được tiết ra mà không có sự hoạt hóa của tiểu cầu.
Một nghiên cứu từ Ukraine đã báo cáo trên 38 phụ nữ có dự trữ buồng trứng thấp và ít nhất 2 chu kỳ IVF thất bại (31-45 tuổi) đã trải qua PRP buồng trứng cho thấy chức năng buồng trứng cải thiện đáng kể với 10 trường hợp mang thai và sinh 6 trẻ khỏe mạnh. Bên cạnh đó, trong số phụ nữ mãn kinh được tiêm PRP trong buồng trứng, sau ít nhất 1 tháng điều trị, 24/30 người phục hồi kinh nguyệt và cải thiện mức độ nội tiết tố cũng như số lượng nang của buồng trứng.
Dựa trên các báo cáo năm 2019, xu hướng cải thiện sự làm tổ của phôi và tỉ lệ trẻ sinh sống được đo lường ở những bệnh nhân tiếp nhận PRP buồng trứng. Hơn nữa, một kỹ thuật Segova được đề cập bởi các chuyên gia ở Serbia báo cáo về một phương pháp xử lý PRP sử dụng hệ thống và máy chuyên dụng để tăng mức độ yếu tố tăng trưởng lên đến 18 lần so với nồng độ ban đầu. Các hướng nghiên cứu trong tương lai nên được lưu ý.
Cân nhắc và chống chỉ định
Tiêu chí đầu vào của bệnh nhân PRP buồng trứng được tuân theo thử nghiệm lâm sàng NIH [NCT03178695] bao gồm bệnh nhân có ít nhất một buồng trứng, vô sinh >1 năm, ít nhất 1 chu kỳ IVF thất bại (hoặc bị hủy), hoặc vô kinh trong ít nhất 3 tháng. Khi khám, điều quan trọng là phải xác nhận khả năng tiếp cận buồng trứng an toàn qua siêu âm ngả âm đạo trước khi thực hiện PRP buồng trứng. Trong quá trình sàng lọc trước điều trị, việc quan trọng là truy vấn sử dụng aspirin/NSAID vì tác nhân của chúng làm suy giảm chức năng tiểu cầu. Ngoài ra, tính an toàn và hiệu quả của các phương pháp điều trị như trên nên được hỗ trợ bởi dữ liệu lý tưởng từ nhiều thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên.
Kết luận
Các quan sát được thảo luận ở đây từ nghiên cứu lâm sàng trong việc trẻ hóa buồng trứng ủng hộ giả thuyết về tái tạo mạch máu (neovascularity) để điều chỉnh khả năng của noãn bằng cách tăng cường oxy tế bào hoặc giảm mức độ ROS trong buồng trứng. Vì vậy, nhu cầu về dữ liệu RCT để đưa các cytokine có nguồn gốc từ tiểu cầu vào buồng trứng trước khi sự đổi mới này được chấp nhận thực hành IVF nên được xem là lĩnh vực quen thuộc đối với y học sinh sản. Thêm vào đó, PRP buồng trứng tự thân đòi hỏi sự đồng thuận của đa trung tâm, nghiên cứu bổ sung để mô tả các thành phần cytokine PRP cụ thể thậm chí sẽ hữu ích hơn.
Nguồn: Sill E.S và Wood S.H. Appraisal of experimental menopause and infertility treatment intraovarian autologous platelet-rich plasma vs. condensed platelet-derived cytokines. 2021 Nov 18.
Huyết tương giàu tiểu cầu (Platelet-rich plasma – PRP) đại diện cho một tập hợp các tín hiệu sinh lý bao gồm hàng trăm cytokines có nguồn gốc từ tiểu cầu thu từ máu ngoại vi. Mối quan tâm đến các ứng dụng của PRP đã tăng lên trong 15 năm qua, từ năm 2016, nó đã thu hút sự chú ý đặc biệt trong sinh học sinh sản thực nghiệm. Nhiều phòng khám IVF đang cung cấp “trẻ hóa buồng trứng – ovarian rejuvenation” mặc dù đây vẫn còn là một giả định. Sự trẻ hóa trong lĩnh vực phụ khoa với lời hứa (không dùng thuốc) của nó là cải thiện chức năng buồng trứng. PRP tự thân đôi khi cũng được bơm vào buồng tử cung, nhằm mục đích tăng cường khả năng tiếp nhận của nội mạc và phôi làm tổ. PRP tiêm vào buồng trứng tham gia vào một nhóm các can thiệp chưa được kiểm tra như hormone tăng trưởng ở người, aspirin, heparin, DHEA, chất chống oxy hóa và nội soi tử cung.
Cơ sở điều trị (Therapeutic Rationale)
Tiểu cầu chứa nhiều hạt, khi kích hoạt sẽ cung cấp nhiều protein bao gồm các yếu tố tăng trưởng như có nguồn gốc từ tiểu cầu (platelet-derived growth factor - PDGF), nguyên bào sợi (fibroblast growth factor - FGF), nội mô mạch máu (vascular endothelial growth factor – VEGF), biểu mô (epidermal growth factor – EFF), chuyển đổi-beta 1 (transforming growth factor-beta 1 - TGF-β1), giống insulin (insulin-like growth factor – IGF), mô liên kết (connecting tissue growth factor – CTGF), tế bào gan (hepatocyte growth factor – HGF) và những yếu tố khác. Những yếu tố này điều phối sự phát triển của tế bào và trực tiếp sửa chữa những tổn thương mô. Đối với mô buồng trứng già hoặc bị suy giảm, các dữ liệu báo cáo cho thấy PRP có thể góp phần cải thiện tưới máu mô đệm, cho phép mở rộng đoàn hệ nang (follicle pool), chọn lọc các noãn tiềm năng và tạo ra những thai nhi đủ tháng khỏe mạnh. Trong khi PRP tiêm vào buồng trứng được xem là tiền thân của IVF thì việc tái thiết lập lại sau điều trị bằng cytokine tiểu cầu còn mang lại lợi ích ngay cả khi không tuân theo các phương pháp điều trị phức tạp. Điều này có thể do sự phân giải tạm thời của mô bất thường liên quan đến đặc điểm giảm tưới máu của buồng trứng lão hóa.
PRP tiêm vào buồng trứng: nghiên cứu trên động vật và người
Một mô hình động vật trong đó việc sử dụng 4-vinylcyclohexene dioxide trong phúc mạc như một gonadotoxin để gây suy buồng trứng (ovarian insufficiency – POI). Tiếp theo, tiêm PRP vào buồng trứng chuột và theo dõi các thay đổi tế bào cũng như sự tăng biểu hiện của các bản sao liên quan đến gene ANGPT2 và KDR thông qua real-time qPCR. Về cơ bản, tiêm PRP đã làm giảm đáng kể mức độ mất nang và phản ứng viêm. Hơn nữa, sự cải thiện về số lượng lứa đã được ghi nhận ở những động vật PRP+ so với nhóm POI không điều trị. Từ đó, nghiên cứu cho thấy PRP trong buồng trứng cũng bảo vệ các nang bình thường về hình thái khỏi bị thoái hóa, tiềm năng chống oxy hóa buồng trứng được cải thiện và tăng phát triển nang sau khi PRP làm giảm tác động có hại của noãn trong PCOS.
Sự khác biệt giữa bệnh nhân và quy trình
Nồng độ tiểu cầu và sự liên kết của cytokine dẫn xuất đều cho thấy sự khác biệt đáng kể đối với từng cá nhân, điều này đối với điều trị PRP rất quan trọng để xem xét với những bệnh nhân tiềm năng trước khi chỉ định trẻ hóa buồng trứng. Cụ thể là dữ liệu ở người được tiêm PRP vào buồng trứng (n=182) đã xác định sự khác biệt đáng kể về số lượng tiểu cầu ban đầu giữa những người đáp ứng và không đáp ứng; từ đó, xác định mối quan hệ giữa số lượng tiểu cầu và dự trữ buồng trứng sau điều trị. Đối với các trường hợp giảm tiểu cầu tuyệt đối (absolute thrombocytopenia) (PLT<100k), tư vấn chuyên khoa huyết học là thích hợp vì có nguy cơ cao trong IVF và mang thai.
Các cytokine có nguồn gốc từ tiểu cầu đã được định lượng sau khi hoạt hóa với canxi hoặc canxi/thrombin. Nồng độ cao của yếu tố tăng trưởng có nguồn gốc từ tiểu cầu, TGF được tiết ra với interleukin (IL)-4,8,13,17; yếu tố hoại tử khối u (tumor necrosis factor – TNF-α) và interferon (IFN-α). Vì vậy, không có cytokine nào được tiết ra mà không có sự hoạt hóa của tiểu cầu.
Một nghiên cứu từ Ukraine đã báo cáo trên 38 phụ nữ có dự trữ buồng trứng thấp và ít nhất 2 chu kỳ IVF thất bại (31-45 tuổi) đã trải qua PRP buồng trứng cho thấy chức năng buồng trứng cải thiện đáng kể với 10 trường hợp mang thai và sinh 6 trẻ khỏe mạnh. Bên cạnh đó, trong số phụ nữ mãn kinh được tiêm PRP trong buồng trứng, sau ít nhất 1 tháng điều trị, 24/30 người phục hồi kinh nguyệt và cải thiện mức độ nội tiết tố cũng như số lượng nang của buồng trứng.
Dựa trên các báo cáo năm 2019, xu hướng cải thiện sự làm tổ của phôi và tỉ lệ trẻ sinh sống được đo lường ở những bệnh nhân tiếp nhận PRP buồng trứng. Hơn nữa, một kỹ thuật Segova được đề cập bởi các chuyên gia ở Serbia báo cáo về một phương pháp xử lý PRP sử dụng hệ thống và máy chuyên dụng để tăng mức độ yếu tố tăng trưởng lên đến 18 lần so với nồng độ ban đầu. Các hướng nghiên cứu trong tương lai nên được lưu ý.
Cân nhắc và chống chỉ định
Tiêu chí đầu vào của bệnh nhân PRP buồng trứng được tuân theo thử nghiệm lâm sàng NIH [NCT03178695] bao gồm bệnh nhân có ít nhất một buồng trứng, vô sinh >1 năm, ít nhất 1 chu kỳ IVF thất bại (hoặc bị hủy), hoặc vô kinh trong ít nhất 3 tháng. Khi khám, điều quan trọng là phải xác nhận khả năng tiếp cận buồng trứng an toàn qua siêu âm ngả âm đạo trước khi thực hiện PRP buồng trứng. Trong quá trình sàng lọc trước điều trị, việc quan trọng là truy vấn sử dụng aspirin/NSAID vì tác nhân của chúng làm suy giảm chức năng tiểu cầu. Ngoài ra, tính an toàn và hiệu quả của các phương pháp điều trị như trên nên được hỗ trợ bởi dữ liệu lý tưởng từ nhiều thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên.
Kết luận
Các quan sát được thảo luận ở đây từ nghiên cứu lâm sàng trong việc trẻ hóa buồng trứng ủng hộ giả thuyết về tái tạo mạch máu (neovascularity) để điều chỉnh khả năng của noãn bằng cách tăng cường oxy tế bào hoặc giảm mức độ ROS trong buồng trứng. Vì vậy, nhu cầu về dữ liệu RCT để đưa các cytokine có nguồn gốc từ tiểu cầu vào buồng trứng trước khi sự đổi mới này được chấp nhận thực hành IVF nên được xem là lĩnh vực quen thuộc đối với y học sinh sản. Thêm vào đó, PRP buồng trứng tự thân đòi hỏi sự đồng thuận của đa trung tâm, nghiên cứu bổ sung để mô tả các thành phần cytokine PRP cụ thể thậm chí sẽ hữu ích hơn.
Nguồn: Sill E.S và Wood S.H. Appraisal of experimental menopause and infertility treatment intraovarian autologous platelet-rich plasma vs. condensed platelet-derived cytokines. 2021 Nov 18.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Truyền PRP vào tử cung trước khi chuyển phôi trữ cải thiện tỉ lệ thai lâm sàng của bệnh nhân thất bại làm tổ nhiều lần - Ngày đăng: 05-10-2022
Thời điểm tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI) tối ưu sau khi chọc hút noãn: Một thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên - Ngày đăng: 05-10-2022
So sánh kiểu động học hình thái phôi giữa chu kỳ ICSI-AOA và ICSI đơn thuần - Ngày đăng: 05-10-2022
Phospholipase C zeta tương quan tới chỉ số tinh trùng tốt và sự thành công của quá trình thụ tinh ở những bệnh nhân điều trị vô sinh - Ngày đăng: 27-09-2022
Các gen in dấu H19, PEG3 và SNRPN có bị ảnh hưởng trong quá trình AOA không? - Ngày đăng: 27-09-2022
Số lượng và chức năng của tế bào NK trong tử cung ở bệnh nhân sẩy thai và thất bại làm tổ liên tiếp: một tổng quan hệ thống và phân tích gộp - Ngày đăng: 27-09-2022
Giá trị của quan sát hình ảnh thoi vô sắc kết hợp với kỹ thuật PIEZO-ICSI đến sự thụ tinh và phát triển của phôi - Ngày đăng: 24-09-2022
Ảnh hưởng của khoảng không quanh noãn đến tỷ lệ thụ tinh và sự phát triển của phôi trong kỹ thuật tiêm tinh trùng vào bào tương noãn - Ngày đăng: 24-09-2022
Kết quả thai bất lợi ở phụ nữ lạc nội mạc tử cung: Một báo cáo hệ thống và phân tích gộp - Ngày đăng: 24-09-2022
Hoạt hóa noãn nhân tạo có thể cải thiện chất lượng phôi ở bệnh nhân lớn tuổi giảm dự trữ buồng trứng điều trị IVF-ICSI - Ngày đăng: 07-09-2022
Tự động hóa trong ART: mở đường cho tương lai của điều trị vô sinh - Ngày đăng: 20-08-2024
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Quinter Central Nha Trang, chiều thứ bảy 11.1.2025 (13:00 - 17:00)
Năm 2020
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK