Tin tức
on Tuesday 27-09-2022 10:41am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH Nguyễn Thị Minh Phượng, IVFMD Tân Bình
Vô sinh ảnh hưởng tới khoảng 15% cặp vợ chồng trên thế giới, vô sinh nam chiếm khoảng 7% nam giới. Trong đó, nguyên nhân di truyền có thể chiếm khoảng 30%, 50% trường hợp vô sinh do yếu tố nam không rõ nguyên nhân. Mặc dù công nghệ hỗ trợ sinh sản đã giảm bớt được gánh nặng của vấn đề này, nhưng có thể thấy kết quả điều trị có thể xác định bởi một số sự kiện ban đầu trong quá trình thụ tinh. Ở động vật có vú, noãn trải qua một loạt các sự kiện được gọi chung là hoạt hóa noãn. Bắt đầu bởi phospholipase C đặc hiệu của tinh trùng là phospholipase C zeta (PLCζ) tạo các dạo động sóng canxi (Ca2+) nội bào. Các nghiên cứu đã cho thấy ở những mô hình động vật có PLCζ bất thường hoặc không có PLCζ sẽ dẫn đến giảm hoặc không thể tạo ra các dao động sóng Ca2+. Ngay cả khi thực hiện tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (intracytoplasmic sperm injection – ICSI), các dao động này cũng không thể tạo ra nếu tinh trùng của người hoặc chuột khi thiếu hụt hoạt hóa noãn (oocyte activation deficiency – OAD). Các đột biến trong gen PLCζ được xác định là một trong những dấu hiệu nhận biết của tinh trùng OAD và liên quan tới một số tình trạng như: bất thường hình thái, phân mảnh DNA tinh trùng và ảnh hưởng tới thai kỳ. Do đó, phân tích miễn dịch PLCζ trong tinh trùng người có thể là một phương pháp chẩn đoán có lợi cho bệnh nhân.
Cho đến nay, phạm vi nghiên cứu chỉ giới hạn trong các trường hợp không thụ tinh hoàn toàn, trong khi PLCζ hứa hẹn là một yếu tố tiên lượng lâm sàng được đề cập trong nghiên cứu của Kashir và cộng sự (2010). Nghiên cứu này là tổng quan hệ thống đầu tiên phân tích về PLCζ trong tinh trùng người từ một quần thể nam giới đang điều trị hỗ trợ sinh sản, đánh giá khả năng sử dụng như một thông số thường quy về sức khỏe sinh sản nam giới.
PLCζ được kiểm tra trong một nhóm nam giới có các chu kỳ điều trị liên tiếp phòng khám vô sinh (65 bệnh nhân, độ tuổi từ 29-53 tuổi). Tiêu chuẩn nhận: nam giới có mật độ tinh trùng tối thiểu là 5×10 6 tinh trùng/mL, bệnh nhân nữ chọc hút từ năm noãn trở lên. Số lượng tinh trùng, khả năng di động và thể tích tinh dịch được ghi nhận theo tiêu chuẩn của WHO, phương pháp đánh dấu miễn dịch và phương pháp huỳnh quang miễn dịch được sử dụng để đánh giá PLCζ. Các phương pháp điều trị khả năng sinh sản thích hợp được thực hiện theo các quy trình vận hành tiêu chuẩn lâm sàng thông thường và đánh giá thụ tinh.
Một số kết quả thu nhận được:
Tài liệu tham khảo: Kashir, J., Mistry, B. V., BuSaleh, L., Abu‐Dawas, R., Nomikos, M., Ajlan, A., ... & Coskun, S. (2020). Phospholipase C zeta profiles are indicative of optimal sperm parameters and fertilisation success in patients undergoing fertility treatment. Andrology, 8(5), 1143-1159.
Vô sinh ảnh hưởng tới khoảng 15% cặp vợ chồng trên thế giới, vô sinh nam chiếm khoảng 7% nam giới. Trong đó, nguyên nhân di truyền có thể chiếm khoảng 30%, 50% trường hợp vô sinh do yếu tố nam không rõ nguyên nhân. Mặc dù công nghệ hỗ trợ sinh sản đã giảm bớt được gánh nặng của vấn đề này, nhưng có thể thấy kết quả điều trị có thể xác định bởi một số sự kiện ban đầu trong quá trình thụ tinh. Ở động vật có vú, noãn trải qua một loạt các sự kiện được gọi chung là hoạt hóa noãn. Bắt đầu bởi phospholipase C đặc hiệu của tinh trùng là phospholipase C zeta (PLCζ) tạo các dạo động sóng canxi (Ca2+) nội bào. Các nghiên cứu đã cho thấy ở những mô hình động vật có PLCζ bất thường hoặc không có PLCζ sẽ dẫn đến giảm hoặc không thể tạo ra các dao động sóng Ca2+. Ngay cả khi thực hiện tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (intracytoplasmic sperm injection – ICSI), các dao động này cũng không thể tạo ra nếu tinh trùng của người hoặc chuột khi thiếu hụt hoạt hóa noãn (oocyte activation deficiency – OAD). Các đột biến trong gen PLCζ được xác định là một trong những dấu hiệu nhận biết của tinh trùng OAD và liên quan tới một số tình trạng như: bất thường hình thái, phân mảnh DNA tinh trùng và ảnh hưởng tới thai kỳ. Do đó, phân tích miễn dịch PLCζ trong tinh trùng người có thể là một phương pháp chẩn đoán có lợi cho bệnh nhân.
Cho đến nay, phạm vi nghiên cứu chỉ giới hạn trong các trường hợp không thụ tinh hoàn toàn, trong khi PLCζ hứa hẹn là một yếu tố tiên lượng lâm sàng được đề cập trong nghiên cứu của Kashir và cộng sự (2010). Nghiên cứu này là tổng quan hệ thống đầu tiên phân tích về PLCζ trong tinh trùng người từ một quần thể nam giới đang điều trị hỗ trợ sinh sản, đánh giá khả năng sử dụng như một thông số thường quy về sức khỏe sinh sản nam giới.
PLCζ được kiểm tra trong một nhóm nam giới có các chu kỳ điều trị liên tiếp phòng khám vô sinh (65 bệnh nhân, độ tuổi từ 29-53 tuổi). Tiêu chuẩn nhận: nam giới có mật độ tinh trùng tối thiểu là 5×10 6 tinh trùng/mL, bệnh nhân nữ chọc hút từ năm noãn trở lên. Số lượng tinh trùng, khả năng di động và thể tích tinh dịch được ghi nhận theo tiêu chuẩn của WHO, phương pháp đánh dấu miễn dịch và phương pháp huỳnh quang miễn dịch được sử dụng để đánh giá PLCζ. Các phương pháp điều trị khả năng sinh sản thích hợp được thực hiện theo các quy trình vận hành tiêu chuẩn lâm sàng thông thường và đánh giá thụ tinh.
Một số kết quả thu nhận được:
- Bốn kiểu phân bố PLCζ khác biệt được tìm thấy: vùng equatorial, vùng acrosomal + equatorial ở phần đầu tinh trùng, phân tán rải rác và không có sự xuất hiện của PLCζ.
- PLCζ vùng acrosomal + equatorial có mối tương quan với khả năng di chuyển và số lượng tinh trùng, PLCζ phân tán tương quan với việc giảm khả năng sống của tinh trùng. Mức độ PLCζ cho thấy mối tương quan đáng kể với các thông số của tinh trùng.
- Phân tích phương sai của PLCζ tương ứng với giảm chất lượng tinh trùng.
- Tỷ lệ thụ tinh cao hơn ở nhóm có PLCζ phân bố tại vùng acrosomal + equatorial, ít có sự phân tán hơn các nhóm còn lại.
Tài liệu tham khảo: Kashir, J., Mistry, B. V., BuSaleh, L., Abu‐Dawas, R., Nomikos, M., Ajlan, A., ... & Coskun, S. (2020). Phospholipase C zeta profiles are indicative of optimal sperm parameters and fertilisation success in patients undergoing fertility treatment. Andrology, 8(5), 1143-1159.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Các gen in dấu H19, PEG3 và SNRPN có bị ảnh hưởng trong quá trình AOA không? - Ngày đăng: 27-09-2022
Số lượng và chức năng của tế bào NK trong tử cung ở bệnh nhân sẩy thai và thất bại làm tổ liên tiếp: một tổng quan hệ thống và phân tích gộp - Ngày đăng: 27-09-2022
Giá trị của quan sát hình ảnh thoi vô sắc kết hợp với kỹ thuật PIEZO-ICSI đến sự thụ tinh và phát triển của phôi - Ngày đăng: 24-09-2022
Ảnh hưởng của khoảng không quanh noãn đến tỷ lệ thụ tinh và sự phát triển của phôi trong kỹ thuật tiêm tinh trùng vào bào tương noãn - Ngày đăng: 24-09-2022
Kết quả thai bất lợi ở phụ nữ lạc nội mạc tử cung: Một báo cáo hệ thống và phân tích gộp - Ngày đăng: 24-09-2022
Hoạt hóa noãn nhân tạo có thể cải thiện chất lượng phôi ở bệnh nhân lớn tuổi giảm dự trữ buồng trứng điều trị IVF-ICSI - Ngày đăng: 07-09-2022
Tự động hóa trong ART: mở đường cho tương lai của điều trị vô sinh - Ngày đăng: 20-08-2024
Rối loạn chức năng ty thể trong tế bào hạt có liên quan đến giảm khả năng sinh sản ở phụ nữ cao tuổi - Ngày đăng: 07-09-2022
Đánh giá khả năng tiên đoán tạo phôi nang chất lượng tốt của Aminopeptidase N từ tinh trùng trong các chu kỳ sử dụng noãn hiến tặng - Ngày đăng: 07-09-2022
Bổ sung progesterone trong chu kỳ tự nhiên giúp cải thiện tỷ lệ trẻ sinh sống sau khi chuyển phôi trữ lạnh- một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng - Ngày đăng: 07-09-2022
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Quinter Central Nha Trang, chiều thứ bảy 11.1.2025 (13:00 - 17:00)
Năm 2020
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK