Tin tức
on Saturday 24-09-2022 11:13am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Phạm Duy Tùng - IVFMD Tân Bình
Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy mối tương quan giữa hình thái thoi vô sắc của noãn đến tỷ lệ thụ tinh khi tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (intracytoplasmic sperm injection - ICSI). Hầu hết các nghiên cứu này thực hành với ICSI thông thường, sử dụng kim nhọn (vát hoặc có mấu nhọn) hút bào tương noãn vào bên trong kim ICSI để làm vỡ màng bào tương và đưa tinh trùng vào. Thể tích bào tương bị hút vào kim khác nhau giữa các noãn và điều này ảnh hưởng đến quá trình thụ tinh, và từ đó gây ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu. Kỹ thuật Piezo-ICSI (P-ICSI) sử dụng các xung siêu âm để gây vỡ màng vào tương, không hút bào tương noãn vào kim. Kỹ thuật này đã được nghiên cứu và nhận thấy giúp cải thiện tỷ lệ thụ tinh. Do đó, nghiên cứu này được thực hiện nhằm xác định lại mối tương quan giữa việc quan sát thấy hình ảnh thoi vô sắc kết hợp với P-ICSI lên tỷ lệ thụ tinh cũng như các kết quả phôi học.
Nghiên cứu hồi cứu được thực hiện trên 529 noãn trưởng thành, sử dụng mẫu tinh trùng tươi và trữ lạnh. Những trường hợp sử dụng tinh trùng thu nhận từ thủ thuật, nuôi trưởng thành noãn và sử dụng noãn trữ lạnh bị loại khỏi nghiên cứu. Những noãn trưởng thành này được chia thành 2 nhóm: nhóm có sự xuất hiện của thoi vô sắc (+) gồm 489 noãn và nhóm không có sự xuất hiện của thoi vô sắc (-) gồm 40 noãn. Sự xuất hiện của thôi vô sắc được xác định bằng kính hiển vi phân cực. Nghiên cứu tập trung vào tỷ lệ thụ tinh, thụ tinh bất thường, tỷ lệ phôi tốt ngày 3, tỷ lệ tạo phôi và phôi tốt ngày 5.
Nhóm ghi nhận được các kết quả như sau:
Nghiên cứu hồi cứu được thực hiện trên 529 noãn trưởng thành, sử dụng mẫu tinh trùng tươi và trữ lạnh. Những trường hợp sử dụng tinh trùng thu nhận từ thủ thuật, nuôi trưởng thành noãn và sử dụng noãn trữ lạnh bị loại khỏi nghiên cứu. Những noãn trưởng thành này được chia thành 2 nhóm: nhóm có sự xuất hiện của thoi vô sắc (+) gồm 489 noãn và nhóm không có sự xuất hiện của thoi vô sắc (-) gồm 40 noãn. Sự xuất hiện của thôi vô sắc được xác định bằng kính hiển vi phân cực. Nghiên cứu tập trung vào tỷ lệ thụ tinh, thụ tinh bất thường, tỷ lệ phôi tốt ngày 3, tỷ lệ tạo phôi và phôi tốt ngày 5.
Nhóm ghi nhận được các kết quả như sau:
- Tỷ lệ thụ tinh, phôi tốt ngày 3, tạo phôi ngày 5 và phôi tốt ngày 5 ở nhóm có thoi vô sắc cao hơn đáng kể so với nhóm không có thoi vô sắc. Cụ thể, tỷ lệ thụ tinh ở nhóm (+) là 92,0% so với 70,0% ở nhóm (-) (p<0,05). Tỷ lệ phôi tốt ngày 3 và ngày 5 lần lượt là 62,9% và 29,8% so với 35,7% và 3,6% ở nhóm (-) (p<0,05). Tỷ lệ tạo phôi ngày 5 cũng cao hơn ở nhóm (+) so với nhóm (-) (53,7% so với 32,1%, p<0,05).
- Tỷ lệ không thụ tinh (0PN) và đa thụ tinh (3PN) cũng cao hơn đáng kể ở nhóm (-) (15,0% và 7,5%) so với nhóm (+) (4,7% và 1,0%) với p<0,05.
- Tỷ lệ thoái hoá sau ICSI và tỷ lệ thụ tinh bất thường 1PN cũng cao hơn ở nhóm (-) (5,0% và 2,5%) so với (1,4% và 0,8%) ở nhóm (+) nhưng không có ý nghĩa thống kê.
Kết quả của nghiên cứu nhận thấy sự hiện diện của thoi vô sắc có ảnh hưởng đến kết quả thụ tinh cũng như sự phát triển của phôi sau khi thực hiện P-ICSI. Thoi vô sắc không xuất hiện khi quan sát có thể do hai khả năng, bao gồm noãn chưa trưởng thành về tế bào chất dẫn đến việc thoi vô sắc vẫn còn nằm trong bào tương noãn hoặc đã bị thoái hoá do noãn quá trưởng thành. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy hầu hết thoi vô sắc xuất hiện trong noãn trưởng thành trong khoảng thời gian từ 39-40,5 giờ (96%) sau tiêm mũi khởi động phóng noãn và tỷ lệ xuất hiện này giảm đi đáng kể trong khoảng từ 40,5-41 giờ (77%) khi thoi vô sắc bị phân giải. Do đó, trong trường hợp chọc hút thu nhận noãn được thực hiện trước 39 giờ noãn có thể chưa trưởng thành và cần được nuôi cấy trước khi thực hiện ICSI ít nhất 1 giờ và ngược lại nếu noãn được thu nhận sau 40,5 giờ, noãn có thể quá trưởng thành và cần được thực hiện ICSI càng sớm càng tốt. Trong nghiên cứu này, những noãn không có sự xuất hiện của thoi vô sắc khi quan sát có tỷ lệ thụ tinh thấp cũng như bất thường thụ tinh cao hơn so với những noãn có thoi vô sắc. VÌ vậy, việc tiêm tinh trùng vào noãn khi có thoi vô sắc là cực kỳ quan trọng trong việc cải thiện tỷ lệ thụ tinh.
Ngoài tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ phôi tốt ngày 3, tỷ lệ phát triển lên phôi ngày 5 và phôi tốt ngày 5 cũng cao hơn đáng kể khi có sự hiện diện của thoi vô sắc tại thời điểm ICSI. Thoi vô sắc vốn là một thành phần quan trọng trong quá trình phân bào, do đó, có thể được sử dụng để tiên lượng chất lượng của phôi.
Trong nghiên cứu này, có 1 phôi nang chất lượng tốt được phát triển từ noãn không có sự xuất hiện của thoi vô sắc có thể do bỏ sót trong quá trình quan sát do thoi vô sắc có thể không xuất hiện tại vị trí của thể cực thứ nhất. Các nghiên cứu trước đây cũng đã đề cập về kết quả thai và làm tổ không có sự khác biệt giữa nhóm có và không có thoi vô sắc khi đã phát triển đến giai đoạn phôi nang, do vậy, nên cân nhắc chuyển các phôi nang từ những noãn này.
Khi so sánh với ICSI thông thường, phương pháp P-ICSI cho tỷ lệ thụ tinh và tỷ lệ phôi tốt ngày 3 cao hơn so với các nghiên cứu trước, điều này có thể đến từ việc phương pháp P-ICSI không yêu cầu việc hút bào tương noãn để làm vỡ màng, vốn có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến thoi vô sắc cũng như các bào quan khác trong noãn. Tuy nhiên, tỷ lệ phôi tốt ngày 5 không có sự khác biệt đáng kể, có thể do 68 phôi tốt ngày 3 đã được chuyển vào tử cung hoặc đem đi đông lạnh trước, điều này có thể làm giảm tỷ lệ phôi tốt ngày 5 trong nghiên cứu này. Tóm lại, sự hiện diện của thoi vô sắc trong noãn tại thời điểm ICSI là một yếu tố có thể được dùng để tiên lượng kết quả thụ tinh và kết quả phôi và là một hệ thống quản lý chất lượng trong thực hành cho bác sĩ và chuyên viên phôi học.
Nguồn: Hiraoka, Kenichiro & Uchida, Nozomi & Ishikawa, Tomonori & Kawai, Kiyotaka. (2022). ARTICLE Value of Meiotic Spindle Imaging on Fertilization and Embryo Development Following Human Oocyte Piezo-ICSI. Fertility & Reproduction. 4. 2022-2023. 10.1142/S2661318222500049.
Ngoài tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ phôi tốt ngày 3, tỷ lệ phát triển lên phôi ngày 5 và phôi tốt ngày 5 cũng cao hơn đáng kể khi có sự hiện diện của thoi vô sắc tại thời điểm ICSI. Thoi vô sắc vốn là một thành phần quan trọng trong quá trình phân bào, do đó, có thể được sử dụng để tiên lượng chất lượng của phôi.
Trong nghiên cứu này, có 1 phôi nang chất lượng tốt được phát triển từ noãn không có sự xuất hiện của thoi vô sắc có thể do bỏ sót trong quá trình quan sát do thoi vô sắc có thể không xuất hiện tại vị trí của thể cực thứ nhất. Các nghiên cứu trước đây cũng đã đề cập về kết quả thai và làm tổ không có sự khác biệt giữa nhóm có và không có thoi vô sắc khi đã phát triển đến giai đoạn phôi nang, do vậy, nên cân nhắc chuyển các phôi nang từ những noãn này.
Khi so sánh với ICSI thông thường, phương pháp P-ICSI cho tỷ lệ thụ tinh và tỷ lệ phôi tốt ngày 3 cao hơn so với các nghiên cứu trước, điều này có thể đến từ việc phương pháp P-ICSI không yêu cầu việc hút bào tương noãn để làm vỡ màng, vốn có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến thoi vô sắc cũng như các bào quan khác trong noãn. Tuy nhiên, tỷ lệ phôi tốt ngày 5 không có sự khác biệt đáng kể, có thể do 68 phôi tốt ngày 3 đã được chuyển vào tử cung hoặc đem đi đông lạnh trước, điều này có thể làm giảm tỷ lệ phôi tốt ngày 5 trong nghiên cứu này. Tóm lại, sự hiện diện của thoi vô sắc trong noãn tại thời điểm ICSI là một yếu tố có thể được dùng để tiên lượng kết quả thụ tinh và kết quả phôi và là một hệ thống quản lý chất lượng trong thực hành cho bác sĩ và chuyên viên phôi học.
Nguồn: Hiraoka, Kenichiro & Uchida, Nozomi & Ishikawa, Tomonori & Kawai, Kiyotaka. (2022). ARTICLE Value of Meiotic Spindle Imaging on Fertilization and Embryo Development Following Human Oocyte Piezo-ICSI. Fertility & Reproduction. 4. 2022-2023. 10.1142/S2661318222500049.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Ảnh hưởng của khoảng không quanh noãn đến tỷ lệ thụ tinh và sự phát triển của phôi trong kỹ thuật tiêm tinh trùng vào bào tương noãn - Ngày đăng: 24-09-2022
Kết quả thai bất lợi ở phụ nữ lạc nội mạc tử cung: Một báo cáo hệ thống và phân tích gộp - Ngày đăng: 24-09-2022
Hoạt hóa noãn nhân tạo có thể cải thiện chất lượng phôi ở bệnh nhân lớn tuổi giảm dự trữ buồng trứng điều trị IVF-ICSI - Ngày đăng: 07-09-2022
Tự động hóa trong ART: mở đường cho tương lai của điều trị vô sinh - Ngày đăng: 20-08-2024
Rối loạn chức năng ty thể trong tế bào hạt có liên quan đến giảm khả năng sinh sản ở phụ nữ cao tuổi - Ngày đăng: 07-09-2022
Đánh giá khả năng tiên đoán tạo phôi nang chất lượng tốt của Aminopeptidase N từ tinh trùng trong các chu kỳ sử dụng noãn hiến tặng - Ngày đăng: 07-09-2022
Bổ sung progesterone trong chu kỳ tự nhiên giúp cải thiện tỷ lệ trẻ sinh sống sau khi chuyển phôi trữ lạnh- một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng - Ngày đăng: 07-09-2022
Mối tương quan giữa gia tốc tuổi sinh sản trong tế bào hạt và các chỉ số đánh giá dự trữ buồng trứng ở bệnh nhân thụ tinh ống nghiệm - Ngày đăng: 07-09-2022
Mối liên quan giữa thời gian lưu trữ phôi và sự thành công trong điều trị ở những bệnh nhân được chỉ định trữ phôi toàn bộ và chuyển phôi trữ sau đó - Ngày đăng: 07-09-2022
Cầu nối liên kết giữa khối tế bào bên trong và tế bào lá nuôi ở phôi nang là yếu tố tiên lượng cho kết quả lâm sàng và em bé sinh: Một nghiên cứu dựa trên time-lapse - Ngày đăng: 04-09-2022
Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong nhận diện phôi: một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu - Ngày đăng: 04-09-2022
Khuynh hướng mới trong phân loại và chẩn đoán hội chứng buồng trứng đa nang - Ngày đăng: 04-09-2022
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK