Tin tức
on Wednesday 26-10-2022 8:04am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Nguyễn Quỳnh Như - Bệnh viện Đại học Buôn Ma Thuột
Trong công nghệ hỗ trợ sinh sản, sự xuất hiện của hai tiền nhân (2PN) được xem là quá trình thụ tinh bình thường. Thông thường hai tiền nhân bình thường sẽ có kích thước bằng nhau và nằm ở trung tâm của hợp tử. Trong trường hợp các tiền nhân có kích thước không bằng nhau có thể dự đoán khả năng phát triển của hợp tử kém hơn và tỷ lệ dị bội cao hơn. Hợp tử 3PN được xem là thụ tinh bất thường do các phôi phát sinh từ hợp tử này phần lớn có bộ nhiễm sắc thể đa bội, và việc chuyển các phôi này sẽ dẫn đến tăng nguy cơ sẩy thai hoặc tạo thành thai trứng. Tuy nhiên, một số báo cáo trước đây cho thấy các phôi nang có nguồn gốc từ hợp tử 3PN với 2PN có kích thước bình thường và 1PN có kích thước nhỏ hơn (gọi là 2.1PN) có thể có đến 85,7% hợp tử có bộ nhiễm sắc thể nguyên bội và có trẻ sinh sống sau khi chuyển phôi. Điều quan trọng là phải phân tích các bất thường nhiễm sắc thể của phôi để xác định xem có phù hợp để chuyển phôi hay không. Do đó, trong nghiên cứu này, nhóm tác giả thực hiện xem xét tiềm năng phát triển và các bất thường nhiễm sắc thể của các phôi 2.1PN.
Tác giả thực hiện hồi cứu trên 1001 chu kỳ ICSI của 695 bệnh nhân từ tháng 11.2020 đến tháng 7.2021. Các hợp tử 2.1PN được xác định tại thời điểm kiểm tra thụ tinh, nếu có 2PN có kích thước bình thường và 1PN nhỏ có kích thước không vượt quá ⅓ kích thước bình thường sẽ được phân loại là các hợp tử 2.1PN. Tổng cộng có 32 hợp tử 2.1PN (0.4%) được quan sát thấy trong số 7520 noãn ICSI. Ngoài ra nghiên cứu còn đạt được các kết quả:
Trong nghiên cứu này, bằng cách xác nhận có sự xuất hiện của thể cực thứ hai trong chu kỳ ICSI, loại trừ trường hợp tiền nhân thứ 3 của phôi là do chưa tống xuất thể cực thứ hai. Mặc dù cơ chế hình thành 2.1PN vẫn chưa được hiểu đầy đủ, nhưng nghiên cứu này đã khẳng định rằng PN nhỏ hơn được hình thành muộn hơn PN cái và luôn phát triển ngay bên dưới thể cực thứ hai, trước khi di chuyển về phía PN đực. Hơn nữa, không có sự khác biệt về kích thước tiền nhân đực giữa hợp tử 2PN và 2.1PN. Tuy nhiên, tiền nhân cái ở hợp tử 2.1PN nhỏ hơn so với hợp tử 2PN. Điều này cho thấy rằng các tiền nhân thứ 3 với sự xuất hiện trễ hơn nhiều khả năng là xuất hiện trong quá trình phân ly nhiễm sắc thể tại thời điểm hình thành thể cực thứ hai.
Mặc dù, hợp tử 2.1PN phát triển đến giai đoạn phôi nang với tỷ lệ tương đương các hợp tử 2PN, tuy nhiên, hầu hết các phôi 2.1PN có bộ nhiễm sắc thể lệch bội và không phù hợp để chuyển. Tóm lại, nghiên cứu này cho thấy phôi có nguồn gốc 2.1PN không nên được sử dụng. Tuy nhiên, trong các trường hợp không có phôi nào khác để chuyển, bệnh nhân cần được thông báo đầy đủ về tỷ lệ bất thường của hợp tử 2.1 PN trước khi chuyển phôi và đánh giá cẩn trọng tình trạng nhiễm sắc thể thông qua kỹ thuật PGT-A trước khi thực hiện chuyển phôi.
TLTK: Takahashi H, Hirata R, Otsuki J, Habara T, Hayashi N. Are tri‐pronuclear embryos that show two normal‐sized pronuclei and additional smaller pronuclei useful for embryo transfer?. Reproductive Medicine and Biology. 2022 Jan;21(1):e12462.
Trong công nghệ hỗ trợ sinh sản, sự xuất hiện của hai tiền nhân (2PN) được xem là quá trình thụ tinh bình thường. Thông thường hai tiền nhân bình thường sẽ có kích thước bằng nhau và nằm ở trung tâm của hợp tử. Trong trường hợp các tiền nhân có kích thước không bằng nhau có thể dự đoán khả năng phát triển của hợp tử kém hơn và tỷ lệ dị bội cao hơn. Hợp tử 3PN được xem là thụ tinh bất thường do các phôi phát sinh từ hợp tử này phần lớn có bộ nhiễm sắc thể đa bội, và việc chuyển các phôi này sẽ dẫn đến tăng nguy cơ sẩy thai hoặc tạo thành thai trứng. Tuy nhiên, một số báo cáo trước đây cho thấy các phôi nang có nguồn gốc từ hợp tử 3PN với 2PN có kích thước bình thường và 1PN có kích thước nhỏ hơn (gọi là 2.1PN) có thể có đến 85,7% hợp tử có bộ nhiễm sắc thể nguyên bội và có trẻ sinh sống sau khi chuyển phôi. Điều quan trọng là phải phân tích các bất thường nhiễm sắc thể của phôi để xác định xem có phù hợp để chuyển phôi hay không. Do đó, trong nghiên cứu này, nhóm tác giả thực hiện xem xét tiềm năng phát triển và các bất thường nhiễm sắc thể của các phôi 2.1PN.
Tác giả thực hiện hồi cứu trên 1001 chu kỳ ICSI của 695 bệnh nhân từ tháng 11.2020 đến tháng 7.2021. Các hợp tử 2.1PN được xác định tại thời điểm kiểm tra thụ tinh, nếu có 2PN có kích thước bình thường và 1PN nhỏ có kích thước không vượt quá ⅓ kích thước bình thường sẽ được phân loại là các hợp tử 2.1PN. Tổng cộng có 32 hợp tử 2.1PN (0.4%) được quan sát thấy trong số 7520 noãn ICSI. Ngoài ra nghiên cứu còn đạt được các kết quả:
- Những phụ nữ có hợp tử 2.1PN có tuổi trung bình là 39,2 cao hơn đáng kể so 37,3 ở những phụ nữ không có hợp tử 2.1PN trong chu kỳ. Kết quả tương tự cũng được tìm thấy ở nam giới khi tuổi trung bình ở nhóm có sự xuất hiện của 2.1PN là 41,8 tuổi so với nhóm không có 2.1PN là 38,7 tuổi.
- Không tìm thấy sự khác biệt về tỷ lệ phát triển thành phôi nang giữa các hợp tử 2.1PN (43,8%) và 2PN (54,8%). Tỷ lệ hình thành phôi nang chất lượng tốt cũng không ghi nhận sự khác biệt (18,8% và 25,5%).
- Kết quả PGT-A trên 15 phôi nang phát triển từ các hợp tử 2.1PN cho thấy có 13 phôi mang bộ nhiễm sắc thể lệch bội và 2 phôi dạng khảm.
Trong nghiên cứu này, bằng cách xác nhận có sự xuất hiện của thể cực thứ hai trong chu kỳ ICSI, loại trừ trường hợp tiền nhân thứ 3 của phôi là do chưa tống xuất thể cực thứ hai. Mặc dù cơ chế hình thành 2.1PN vẫn chưa được hiểu đầy đủ, nhưng nghiên cứu này đã khẳng định rằng PN nhỏ hơn được hình thành muộn hơn PN cái và luôn phát triển ngay bên dưới thể cực thứ hai, trước khi di chuyển về phía PN đực. Hơn nữa, không có sự khác biệt về kích thước tiền nhân đực giữa hợp tử 2PN và 2.1PN. Tuy nhiên, tiền nhân cái ở hợp tử 2.1PN nhỏ hơn so với hợp tử 2PN. Điều này cho thấy rằng các tiền nhân thứ 3 với sự xuất hiện trễ hơn nhiều khả năng là xuất hiện trong quá trình phân ly nhiễm sắc thể tại thời điểm hình thành thể cực thứ hai.
Mặc dù, hợp tử 2.1PN phát triển đến giai đoạn phôi nang với tỷ lệ tương đương các hợp tử 2PN, tuy nhiên, hầu hết các phôi 2.1PN có bộ nhiễm sắc thể lệch bội và không phù hợp để chuyển. Tóm lại, nghiên cứu này cho thấy phôi có nguồn gốc 2.1PN không nên được sử dụng. Tuy nhiên, trong các trường hợp không có phôi nào khác để chuyển, bệnh nhân cần được thông báo đầy đủ về tỷ lệ bất thường của hợp tử 2.1 PN trước khi chuyển phôi và đánh giá cẩn trọng tình trạng nhiễm sắc thể thông qua kỹ thuật PGT-A trước khi thực hiện chuyển phôi.
TLTK: Takahashi H, Hirata R, Otsuki J, Habara T, Hayashi N. Are tri‐pronuclear embryos that show two normal‐sized pronuclei and additional smaller pronuclei useful for embryo transfer?. Reproductive Medicine and Biology. 2022 Jan;21(1):e12462.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Nhận diện bệnh nhân bị vấn đề về tâm lý trong quá trình điều trị IVF - Ngày đăng: 19-10-2022
Triệu chứng trầm cảm khi mang thai và sau sinh ở bệnh nhân sẩy thai liên tiếp và vô sinh - Ngày đăng: 19-10-2022
Tam thai với thai trứng: hai trường hợp báo cáo - Ngày đăng: 19-10-2022
Đa thai có liên quan đến liệu pháp điều trị vô sinh - Ngày đăng: 19-10-2022
Đánh giá thử nghiệm các phương pháp điều trị mãn kinh và vô sinh: tiêm huyết tương giàu tiểu cầu tự thân vào buồng trứng so với cytokines cô đặc có nguồn gốc từ tiểu cầu - Ngày đăng: 05-10-2022
Truyền PRP vào tử cung trước khi chuyển phôi trữ cải thiện tỉ lệ thai lâm sàng của bệnh nhân thất bại làm tổ nhiều lần - Ngày đăng: 05-10-2022
Thời điểm tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI) tối ưu sau khi chọc hút noãn: Một thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên - Ngày đăng: 05-10-2022
So sánh kiểu động học hình thái phôi giữa chu kỳ ICSI-AOA và ICSI đơn thuần - Ngày đăng: 05-10-2022
Phospholipase C zeta tương quan tới chỉ số tinh trùng tốt và sự thành công của quá trình thụ tinh ở những bệnh nhân điều trị vô sinh - Ngày đăng: 27-09-2022
Các gen in dấu H19, PEG3 và SNRPN có bị ảnh hưởng trong quá trình AOA không? - Ngày đăng: 27-09-2022
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Quinter Central Nha Trang, chiều thứ bảy 11.1.2025 (13:00 - 17:00)
Năm 2020
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK