Tin tức
on Wednesday 26-10-2022 8:06am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Nguyễn Quỳnh Như- Bệnh viện Đại học Buôn Ma Thuột
Thai ngoài tử cung là tình trạng phôi thai làm tổ bên ngoài tử cung tại các vị trí như vòi trứng, cổ tử cung, buồng trứng, ổ bụng ... Thai ngoài tử cung gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe người mẹ và đặc biệt nghiêm trọng vì nguy hiểm đến tính mạng người mẹ. Mặc dù kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đã có nhiều bước tiến trong những thập kỷ qua, nhưng tỷ lệ thai ngoài tử cung trong các chu kỳ hỗ trợ sinh sản vẫn dao động từ 1,4-8,6%. Tỷ lệ này cao hơn gấp bốn lần so với thai kỳ tự nhiên.
Những nghiên cứu trước đây cho thấy nguy cơ thai ngoài tử cung có xu hướng tăng ở phụ nữ vô sinh do vấn đề từ ống dẫn trứng và những phụ nữ lớn tuổi. Bên cạnh đó, phác đồ kích thích buồng trứng hay chỉ số AMH thấp cũng cho thấy có liên quan đến tăng nguy cơ thai ngoài tử cung ở phụ nữ hiếm muộn. Ngoài các yếu tố liên quan đến lâm sàng, mối liên hệ của thai ngoài tử cung và chất lượng hay số lượng phôi chuyển cũng rất được quan tâm nhưng các nghiên cứu hiện tại cho thấy các kết quả trái ngược nhau. Việc chuyển nhiều hơn hai phôi đã được chứng minh là làm tăng tỷ lệ thai ngoài tử cung, cứ mỗi một phôi được thêm vào sẽ làm tăng tỷ lệ thai ngoài tử cung thêm 1,6 - 2,2%. Tuy nhiên, tác động của chất lượng phôi đến tỷ lệ thai ngoài tử cung vẫn chưa được biết đến. Do đó, mục đích của nghiên cứu này là tìm ra các đặc điểm lâm sàng và phôi học có ảnh hưởng đến tỷ lệ thai ngoài tử cung.
Nghiên cứu hồi cứu được thực hiện trong 18 năm (2000-2017) tại Phần Lan với 15.006 trường hợp mang thai lâm sàng sau khi thụ tinh ống nghiệm IVF / ICSI trong đó bao gồm chuyển phôi tươi (n = 8.952) và chuyển phôi trữ (n = 6.054). Có 9.207 (61,4%) chu kỳ chuyển đơn phôi và 5.799 (38,6%) chu kỳ chuyển hai phôi. Sử dụng hồi quy logistic nhóm tác giả đã phân tích ảnh hưởng của nhiều yếu tố đến thai ngoài tử cung bao gồm loại phôi chuyển (tươi và đông lạnh), tuổi, số lượng và chất lượng phôi, vô sinh do yếu tố ống dẫn trứng và đáp ứng buồng trứng trong chu kỳ kích thích buồng trứng.
Kết quả nghiên cứu cho thấy thai ngoài tử cung chiếm 2,3% các chu kỳ chuyển phôi. Không có sự khác biệt có ý nghĩa về tỷ lệ thai ngoài tử cung giữa chuyển phôi tươi và chuyển phôi trữ (2,2% so với 2,4%, p = 0,3). Tỷ lệ thai ngoài tử cung ở những chu kỳ chuyển phôi chất lượng cao (1,9%) thấp hơn đáng kể so với những chu kỳ chỉ chuyển phôi chất lượng kém (2,7%, p <0,0001) (phân loại phôi theo hệ thống Gardner). Nghiên cứu còn cho thấy chuyển hai phôi bất kể hình thái phôi, và nguyên nhân vô sinh do yếu tố ống dẫn trứng có liên quan đến việc tăng tỷ lệ thai ngoài tử cung. Ngoài ra không có đặc điểm nào của kích thích buồng trứng như số lượng noãn thu được, tổng liều gonadotropin, liều lượng / noãn có liên quan đến thai ngoài tử cung sau chuyển phôi.
Trong nghiên cứu này, chất lượng phôi được đánh giá độc lập với số lượng phôi được chuyển trong cả chu kỳ tươi và chu kỳ trữ. Những quan sát này chỉ ra rằng nguy cơ thai ngoài tử cung có thể được giảm thiểu bằng cách chỉ chuyển một phôi chất lượng cao nhất và việc chuyển nhiều phôi chất lượng khá/ trung bình sẽ ảnh hưởng đến kết quả. Trong trường hợp chỉ có sẵn các phôi chất lượng khá/ trung bình, bác sĩ cần tư vấn cho bệnh nhân hiểu rõ về nguy cơ thai ngoài tử cung cao hơn sau khi chuyển nhiều hơn một phôi.
Tỷ lệ thai ngoài tử cung tăng cao trong các chu kỳ điều trị vô sinh do yếu tố ống dẫn trứng trong nghiên cứu hiện tại cho thấy rằng những phụ nữ có tiền sử tổn thương ống dẫn trứng (viêm vùng chậu, phẫu thuật ống dẫn trứng hoặc tiền căn thai ngoài tử cung) cần cẩn trọng hơn trong việc lựa chọn phôi chuyển. Hơn nữa, phân tích về chất lượng phôi cũng cho thấy rằng biểu mô ống dẫn trứng, đặc biệt là biểu mô bị tổn thương, có thể không nhạy cảm với các yếu tố chất lượng phôi do đó có thể dễ tiếp nhận với các phôi chất lượng kém hơn.
Tóm lại, các kết quả hiện tại trong nghiên cứu đã chứng minh rằng việc chuyển phôi chất lượng cao làm giảm nguy cơ thai ngoài tử cung sau IVF / ICSI trong cả chu kỳ phôi tươi và chu kỳ phôi trữ . Nguyên nhân vô sinh do ống dẫn trứng và việc chuyển hai phôi sẽ làm tăng tỷ lệ thai ngoài tử cung ngay cả khi một trong các phôi có chất lượng cao. Nhóm tác giả đề xuất ở những phụ nữ bị vô sinh do yếu tố ống dẫn trứng, nên tránh chuyển hai phôi, kể cả khi bệnh nhân chỉ có những phôi chất lượng khá/ trung bình. Để giảm thiểu nguy cơ thai ngoài tử cung, số lượng phôi được chuyển càng ít càng tốt.
TLTK : Anzhel S, Mäkinen S, Tinkanen H, Mikkilä T, Haltia A, Perheentupa A, Tomás C, Martikainen H, Tiitinen A, Tapanainen JS, Veleva Z. Top‐quality embryo transfer is associated with lower odds of ectopic pregnancy. Acta Obstetricia et Gynecologica Scandinavica. 2022 May 11.
Thai ngoài tử cung là tình trạng phôi thai làm tổ bên ngoài tử cung tại các vị trí như vòi trứng, cổ tử cung, buồng trứng, ổ bụng ... Thai ngoài tử cung gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe người mẹ và đặc biệt nghiêm trọng vì nguy hiểm đến tính mạng người mẹ. Mặc dù kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đã có nhiều bước tiến trong những thập kỷ qua, nhưng tỷ lệ thai ngoài tử cung trong các chu kỳ hỗ trợ sinh sản vẫn dao động từ 1,4-8,6%. Tỷ lệ này cao hơn gấp bốn lần so với thai kỳ tự nhiên.
Những nghiên cứu trước đây cho thấy nguy cơ thai ngoài tử cung có xu hướng tăng ở phụ nữ vô sinh do vấn đề từ ống dẫn trứng và những phụ nữ lớn tuổi. Bên cạnh đó, phác đồ kích thích buồng trứng hay chỉ số AMH thấp cũng cho thấy có liên quan đến tăng nguy cơ thai ngoài tử cung ở phụ nữ hiếm muộn. Ngoài các yếu tố liên quan đến lâm sàng, mối liên hệ của thai ngoài tử cung và chất lượng hay số lượng phôi chuyển cũng rất được quan tâm nhưng các nghiên cứu hiện tại cho thấy các kết quả trái ngược nhau. Việc chuyển nhiều hơn hai phôi đã được chứng minh là làm tăng tỷ lệ thai ngoài tử cung, cứ mỗi một phôi được thêm vào sẽ làm tăng tỷ lệ thai ngoài tử cung thêm 1,6 - 2,2%. Tuy nhiên, tác động của chất lượng phôi đến tỷ lệ thai ngoài tử cung vẫn chưa được biết đến. Do đó, mục đích của nghiên cứu này là tìm ra các đặc điểm lâm sàng và phôi học có ảnh hưởng đến tỷ lệ thai ngoài tử cung.
Nghiên cứu hồi cứu được thực hiện trong 18 năm (2000-2017) tại Phần Lan với 15.006 trường hợp mang thai lâm sàng sau khi thụ tinh ống nghiệm IVF / ICSI trong đó bao gồm chuyển phôi tươi (n = 8.952) và chuyển phôi trữ (n = 6.054). Có 9.207 (61,4%) chu kỳ chuyển đơn phôi và 5.799 (38,6%) chu kỳ chuyển hai phôi. Sử dụng hồi quy logistic nhóm tác giả đã phân tích ảnh hưởng của nhiều yếu tố đến thai ngoài tử cung bao gồm loại phôi chuyển (tươi và đông lạnh), tuổi, số lượng và chất lượng phôi, vô sinh do yếu tố ống dẫn trứng và đáp ứng buồng trứng trong chu kỳ kích thích buồng trứng.
Kết quả nghiên cứu cho thấy thai ngoài tử cung chiếm 2,3% các chu kỳ chuyển phôi. Không có sự khác biệt có ý nghĩa về tỷ lệ thai ngoài tử cung giữa chuyển phôi tươi và chuyển phôi trữ (2,2% so với 2,4%, p = 0,3). Tỷ lệ thai ngoài tử cung ở những chu kỳ chuyển phôi chất lượng cao (1,9%) thấp hơn đáng kể so với những chu kỳ chỉ chuyển phôi chất lượng kém (2,7%, p <0,0001) (phân loại phôi theo hệ thống Gardner). Nghiên cứu còn cho thấy chuyển hai phôi bất kể hình thái phôi, và nguyên nhân vô sinh do yếu tố ống dẫn trứng có liên quan đến việc tăng tỷ lệ thai ngoài tử cung. Ngoài ra không có đặc điểm nào của kích thích buồng trứng như số lượng noãn thu được, tổng liều gonadotropin, liều lượng / noãn có liên quan đến thai ngoài tử cung sau chuyển phôi.
Trong nghiên cứu này, chất lượng phôi được đánh giá độc lập với số lượng phôi được chuyển trong cả chu kỳ tươi và chu kỳ trữ. Những quan sát này chỉ ra rằng nguy cơ thai ngoài tử cung có thể được giảm thiểu bằng cách chỉ chuyển một phôi chất lượng cao nhất và việc chuyển nhiều phôi chất lượng khá/ trung bình sẽ ảnh hưởng đến kết quả. Trong trường hợp chỉ có sẵn các phôi chất lượng khá/ trung bình, bác sĩ cần tư vấn cho bệnh nhân hiểu rõ về nguy cơ thai ngoài tử cung cao hơn sau khi chuyển nhiều hơn một phôi.
Tỷ lệ thai ngoài tử cung tăng cao trong các chu kỳ điều trị vô sinh do yếu tố ống dẫn trứng trong nghiên cứu hiện tại cho thấy rằng những phụ nữ có tiền sử tổn thương ống dẫn trứng (viêm vùng chậu, phẫu thuật ống dẫn trứng hoặc tiền căn thai ngoài tử cung) cần cẩn trọng hơn trong việc lựa chọn phôi chuyển. Hơn nữa, phân tích về chất lượng phôi cũng cho thấy rằng biểu mô ống dẫn trứng, đặc biệt là biểu mô bị tổn thương, có thể không nhạy cảm với các yếu tố chất lượng phôi do đó có thể dễ tiếp nhận với các phôi chất lượng kém hơn.
Tóm lại, các kết quả hiện tại trong nghiên cứu đã chứng minh rằng việc chuyển phôi chất lượng cao làm giảm nguy cơ thai ngoài tử cung sau IVF / ICSI trong cả chu kỳ phôi tươi và chu kỳ phôi trữ . Nguyên nhân vô sinh do ống dẫn trứng và việc chuyển hai phôi sẽ làm tăng tỷ lệ thai ngoài tử cung ngay cả khi một trong các phôi có chất lượng cao. Nhóm tác giả đề xuất ở những phụ nữ bị vô sinh do yếu tố ống dẫn trứng, nên tránh chuyển hai phôi, kể cả khi bệnh nhân chỉ có những phôi chất lượng khá/ trung bình. Để giảm thiểu nguy cơ thai ngoài tử cung, số lượng phôi được chuyển càng ít càng tốt.
TLTK : Anzhel S, Mäkinen S, Tinkanen H, Mikkilä T, Haltia A, Perheentupa A, Tomás C, Martikainen H, Tiitinen A, Tapanainen JS, Veleva Z. Top‐quality embryo transfer is associated with lower odds of ectopic pregnancy. Acta Obstetricia et Gynecologica Scandinavica. 2022 May 11.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Các phôi 3PN với 2 tiền nhân kích thước bình thường và một tiền nhân nhỏ hơn có thể sử dụng chuyển phôi không? - Ngày đăng: 26-10-2022
Nhận diện bệnh nhân bị vấn đề về tâm lý trong quá trình điều trị IVF - Ngày đăng: 19-10-2022
Triệu chứng trầm cảm khi mang thai và sau sinh ở bệnh nhân sẩy thai liên tiếp và vô sinh - Ngày đăng: 19-10-2022
Tam thai với thai trứng: hai trường hợp báo cáo - Ngày đăng: 19-10-2022
Đa thai có liên quan đến liệu pháp điều trị vô sinh - Ngày đăng: 19-10-2022
Đánh giá thử nghiệm các phương pháp điều trị mãn kinh và vô sinh: tiêm huyết tương giàu tiểu cầu tự thân vào buồng trứng so với cytokines cô đặc có nguồn gốc từ tiểu cầu - Ngày đăng: 05-10-2022
Truyền PRP vào tử cung trước khi chuyển phôi trữ cải thiện tỉ lệ thai lâm sàng của bệnh nhân thất bại làm tổ nhiều lần - Ngày đăng: 05-10-2022
Thời điểm tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI) tối ưu sau khi chọc hút noãn: Một thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên - Ngày đăng: 05-10-2022
So sánh kiểu động học hình thái phôi giữa chu kỳ ICSI-AOA và ICSI đơn thuần - Ngày đăng: 05-10-2022
Phospholipase C zeta tương quan tới chỉ số tinh trùng tốt và sự thành công của quá trình thụ tinh ở những bệnh nhân điều trị vô sinh - Ngày đăng: 27-09-2022
Các gen in dấu H19, PEG3 và SNRPN có bị ảnh hưởng trong quá trình AOA không? - Ngày đăng: 27-09-2022
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Quinter Central Nha Trang, chiều thứ bảy 11.1.2025 (13:00 - 17:00)
Năm 2020
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK