Tin tức
on Saturday 29-10-2022 4:05pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Phan Thanh Chi - IVFMD Tân Bình
Kể từ khi em bé trong ống nghiệm đầu tiên trên thế giới ra đời vào năm 1978 thì việc thụ tinh trong ống nghiệm và chuyển phôi (IVF-ET) đã trở thành phương pháp hiệu quả để điều trị vô sinh. Tuy nhiên, nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng IVF-ET có thể khiến 10% –50% phụ nữ có các triệu chứng trầm cảm và lo lắng. Kết quả không thể đoán trước của IVF-ET có thể gây ra cảm xúc tiêu cực và bệnh nhân thường cảm thấy căng thẳng trong khi chờ đợi tin tức về kết quả. Thêm vào đó, lo lắng và trầm cảm ở bệnh nhân được điều trị IVF có thể dẫn đến tỷ lệ mang thai thấp hơn. Mà một trong những vấn đề còn đáng lo ngại trong điều trị hỗ trợ sinh sản là tỷ lệ sảy thai sau IVF-ET còn cao và tỷ lệ sinh sống chỉ xấp xỉ 20% –30%. Sảy thai được xem là hiện tượng chấm dứt thai kỳ trước 20 tuần tuổi và nguyên nhân gây ra sảy thai rất phức tạp. Sự khó khăn và không chắc chắn trong việc chẩn đoán và điều trị khiến bệnh nhân và gia đình phải chịu áp lực rất lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe thể chất lẫn tinh thần.
Chăm sóc bệnh nhân sau IVF-ET, đặc biệt khi bệnh nhân bị sảy thai là một dịch vụ quan trọng. Tuy nhiên, mô hình chăm sóc thường quy dựa trên các chẩn đoán và điều trị tiêu chuẩn chỉ có thể đảm bảo sự có mặt của điều dưỡng cùng sự chăm sóc cơ bản mà không thể cung cấp một dịch vụ toàn diện và liên tục đến tất cả mọi người. Vậy nên, để cung cấp dịch vụ chăm sóc tốt hơn quản lý ca bệnh đã được đề xuất. Quản lý ca bệnh là sự phối hợp giữa thực hiện đánh giá sức khoẻ, lên kế hoạch, chăm sóc và theo dõi sức khoẻ. Người quản lý ca bệnh phải điều phối và tích hợp ý kiến của nhiều chuyên gia khác nhau để cung cấp dịch vụ toàn diện và cơ bản cho bệnh nhân.
Khái niệm quản lý ca bệnh lần đầu tiên được đề xuất ở Hoa Kỳ như một phương pháp quản lý lấy bệnh nhân làm trung tâm, tập trung vào việc điều phối, tích hợp và cung cấp các dịch vụ chăm sóc y tế và nó đã được sử dụng rộng rãi trong thực hành lâm sàng. Trong mô hình này, người quản lý ca bệnh là người phát ngôn, người quản lý, người điều phối, người tư vấn và hướng dẫn bệnh nhân và gia đình của họ. Liệu việc áp dụng quản lý ca bệnh có thể cải thiện sức khỏe thể chất và tinh thần của bệnh nhân sảy thai sau IVF-ET hay không là một câu hỏi chưa có lời giải đáp. Do đó, bài nghiên cứu này tiến hành khám phá ảnh hưởng của quản lý ca bệnh đến bệnh nhân bị sảy thai sau khi thực hiện IVF-ET bằng cách so sánh thông tin chung, sự hài lòng, điểm Thang đo lo âu tự đánh giá (Self-Rating Anxiety Scale - SAS) và Thang đo trầm cảm tự đánh giá (Self-Rating Depression Scale – SDS) của bệnh nhân giữa hai nhóm chăm sóc thông thường và quản lý ca bệnh. Mục tiêu chính là cung cấp thông tin có thể sử dụng để giúp những bệnh nhân bị sảy thai sau IVF-ET cải thiện sự hài lòng, giảm bớt lo lắng và trầm cảm.
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 1/2019 đến tháng 3/2020, sau khi đánh giá và khảo sát 121 câu hỏi trắc nghiệm, 100 người có đầy đủ nhận thức và bị sảy thai sau IVF-ET đạt tiêu chuẩn của nghiên cứu. Từ 100 người này, hai nhóm chăm sóc thường quy và quản lý ca bệnh được thiết lập với mỗi nhóm 50 người. Đối với nhóm chăm sóc thường quy, có một bác sĩ chẩn đoán và điều trị cùng sự hỗ trợ của một điều dưỡng. Trong khi đó, nhóm quản lý ca bệnh gồm một điều dưỡng theo sát quá trình chẩn đoán và điều trị cùng một bác sĩ kiểm soát việc xây dựng kế hoạch chẩn đoán và điều trị cho bệnh nhân. Các mô hình quản lý ca bệnh được xây dựng dựa trên việc chăm sóc toàn diện các trường hợp bệnh nhân bị sảy thai sau khi IVF-ET. Kết quả gồm sự hài lòng, lo lắng và trầm cảm của bệnh nhân được đánh giá tại thời điểm sảy thai, 1 và 3 tháng sau khi sảy thai.
Kết quả nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt đáng kể giữa các bệnh nhân trong hai nhóm về số liệu thống kê thông tin chung của họ (p > 0,05) hoặc sự hài lòng, lo lắng và trầm cảm của họ tại thời điểm sảy thai (p > 0,05). Một tháng sau khi sảy thai, không có sự khác biệt thống kê về mức độ lo lắng giữa hai nhóm (p > 0,05), nhưng sự hài lòng lớn hơn và trầm cảm giảm đáng kể ở nhóm quản lý ca bệnh so với nhóm chăm sóc thường quy (p < 0,05).
Tóm lại, mô hình quản lý ca bệnh có thể có tác dụng tích cực trong việc cải thiện sự hài lòng, lo lắng và trầm cảm của những bệnh nhân bị sảy thai sau IVF-ET. Tuy nhiên, cần có nhiều nghiên cứu với cỡ mẫu lớn hơn trong tương lai để nâng cao độ tin cậy của kết quả nghiên cứu cũng như cung cấp thêm thông tin hướng dẫn thực hành cho lâm sàng.
Nguồn: Xiangli Wu, Yidan Wu, Mei Xia, Wenjie Xie, Huijing Hu, Zhen Xiao, Weihai Xu, Jing Shu, "Case Management Improves Satisfaction, Anxiety, and Depression of Patients with Pregnancy Loss after In Vitro Fertilization and Embryo Transfer", Computational and Mathematical Methods in Medicine, vol. 2022, Article ID 1968313, 8 pages, 2022. https://doi.org/10.1155/2022/1968313
Kể từ khi em bé trong ống nghiệm đầu tiên trên thế giới ra đời vào năm 1978 thì việc thụ tinh trong ống nghiệm và chuyển phôi (IVF-ET) đã trở thành phương pháp hiệu quả để điều trị vô sinh. Tuy nhiên, nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng IVF-ET có thể khiến 10% –50% phụ nữ có các triệu chứng trầm cảm và lo lắng. Kết quả không thể đoán trước của IVF-ET có thể gây ra cảm xúc tiêu cực và bệnh nhân thường cảm thấy căng thẳng trong khi chờ đợi tin tức về kết quả. Thêm vào đó, lo lắng và trầm cảm ở bệnh nhân được điều trị IVF có thể dẫn đến tỷ lệ mang thai thấp hơn. Mà một trong những vấn đề còn đáng lo ngại trong điều trị hỗ trợ sinh sản là tỷ lệ sảy thai sau IVF-ET còn cao và tỷ lệ sinh sống chỉ xấp xỉ 20% –30%. Sảy thai được xem là hiện tượng chấm dứt thai kỳ trước 20 tuần tuổi và nguyên nhân gây ra sảy thai rất phức tạp. Sự khó khăn và không chắc chắn trong việc chẩn đoán và điều trị khiến bệnh nhân và gia đình phải chịu áp lực rất lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe thể chất lẫn tinh thần.
Chăm sóc bệnh nhân sau IVF-ET, đặc biệt khi bệnh nhân bị sảy thai là một dịch vụ quan trọng. Tuy nhiên, mô hình chăm sóc thường quy dựa trên các chẩn đoán và điều trị tiêu chuẩn chỉ có thể đảm bảo sự có mặt của điều dưỡng cùng sự chăm sóc cơ bản mà không thể cung cấp một dịch vụ toàn diện và liên tục đến tất cả mọi người. Vậy nên, để cung cấp dịch vụ chăm sóc tốt hơn quản lý ca bệnh đã được đề xuất. Quản lý ca bệnh là sự phối hợp giữa thực hiện đánh giá sức khoẻ, lên kế hoạch, chăm sóc và theo dõi sức khoẻ. Người quản lý ca bệnh phải điều phối và tích hợp ý kiến của nhiều chuyên gia khác nhau để cung cấp dịch vụ toàn diện và cơ bản cho bệnh nhân.
Khái niệm quản lý ca bệnh lần đầu tiên được đề xuất ở Hoa Kỳ như một phương pháp quản lý lấy bệnh nhân làm trung tâm, tập trung vào việc điều phối, tích hợp và cung cấp các dịch vụ chăm sóc y tế và nó đã được sử dụng rộng rãi trong thực hành lâm sàng. Trong mô hình này, người quản lý ca bệnh là người phát ngôn, người quản lý, người điều phối, người tư vấn và hướng dẫn bệnh nhân và gia đình của họ. Liệu việc áp dụng quản lý ca bệnh có thể cải thiện sức khỏe thể chất và tinh thần của bệnh nhân sảy thai sau IVF-ET hay không là một câu hỏi chưa có lời giải đáp. Do đó, bài nghiên cứu này tiến hành khám phá ảnh hưởng của quản lý ca bệnh đến bệnh nhân bị sảy thai sau khi thực hiện IVF-ET bằng cách so sánh thông tin chung, sự hài lòng, điểm Thang đo lo âu tự đánh giá (Self-Rating Anxiety Scale - SAS) và Thang đo trầm cảm tự đánh giá (Self-Rating Depression Scale – SDS) của bệnh nhân giữa hai nhóm chăm sóc thông thường và quản lý ca bệnh. Mục tiêu chính là cung cấp thông tin có thể sử dụng để giúp những bệnh nhân bị sảy thai sau IVF-ET cải thiện sự hài lòng, giảm bớt lo lắng và trầm cảm.
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 1/2019 đến tháng 3/2020, sau khi đánh giá và khảo sát 121 câu hỏi trắc nghiệm, 100 người có đầy đủ nhận thức và bị sảy thai sau IVF-ET đạt tiêu chuẩn của nghiên cứu. Từ 100 người này, hai nhóm chăm sóc thường quy và quản lý ca bệnh được thiết lập với mỗi nhóm 50 người. Đối với nhóm chăm sóc thường quy, có một bác sĩ chẩn đoán và điều trị cùng sự hỗ trợ của một điều dưỡng. Trong khi đó, nhóm quản lý ca bệnh gồm một điều dưỡng theo sát quá trình chẩn đoán và điều trị cùng một bác sĩ kiểm soát việc xây dựng kế hoạch chẩn đoán và điều trị cho bệnh nhân. Các mô hình quản lý ca bệnh được xây dựng dựa trên việc chăm sóc toàn diện các trường hợp bệnh nhân bị sảy thai sau khi IVF-ET. Kết quả gồm sự hài lòng, lo lắng và trầm cảm của bệnh nhân được đánh giá tại thời điểm sảy thai, 1 và 3 tháng sau khi sảy thai.
Kết quả nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt đáng kể giữa các bệnh nhân trong hai nhóm về số liệu thống kê thông tin chung của họ (p > 0,05) hoặc sự hài lòng, lo lắng và trầm cảm của họ tại thời điểm sảy thai (p > 0,05). Một tháng sau khi sảy thai, không có sự khác biệt thống kê về mức độ lo lắng giữa hai nhóm (p > 0,05), nhưng sự hài lòng lớn hơn và trầm cảm giảm đáng kể ở nhóm quản lý ca bệnh so với nhóm chăm sóc thường quy (p < 0,05).
Tóm lại, mô hình quản lý ca bệnh có thể có tác dụng tích cực trong việc cải thiện sự hài lòng, lo lắng và trầm cảm của những bệnh nhân bị sảy thai sau IVF-ET. Tuy nhiên, cần có nhiều nghiên cứu với cỡ mẫu lớn hơn trong tương lai để nâng cao độ tin cậy của kết quả nghiên cứu cũng như cung cấp thêm thông tin hướng dẫn thực hành cho lâm sàng.
Nguồn: Xiangli Wu, Yidan Wu, Mei Xia, Wenjie Xie, Huijing Hu, Zhen Xiao, Weihai Xu, Jing Shu, "Case Management Improves Satisfaction, Anxiety, and Depression of Patients with Pregnancy Loss after In Vitro Fertilization and Embryo Transfer", Computational and Mathematical Methods in Medicine, vol. 2022, Article ID 1968313, 8 pages, 2022. https://doi.org/10.1155/2022/1968313
Các tin khác cùng chuyên mục:
Chuyển phôi chất lượng tốt giúp giảm nguy cơ thai ngoài tử cung - Ngày đăng: 26-10-2022
Các phôi 3PN với 2 tiền nhân kích thước bình thường và một tiền nhân nhỏ hơn có thể sử dụng chuyển phôi không? - Ngày đăng: 26-10-2022
Nhận diện bệnh nhân bị vấn đề về tâm lý trong quá trình điều trị IVF - Ngày đăng: 19-10-2022
Triệu chứng trầm cảm khi mang thai và sau sinh ở bệnh nhân sẩy thai liên tiếp và vô sinh - Ngày đăng: 19-10-2022
Tam thai với thai trứng: hai trường hợp báo cáo - Ngày đăng: 19-10-2022
Đa thai có liên quan đến liệu pháp điều trị vô sinh - Ngày đăng: 19-10-2022
Đánh giá thử nghiệm các phương pháp điều trị mãn kinh và vô sinh: tiêm huyết tương giàu tiểu cầu tự thân vào buồng trứng so với cytokines cô đặc có nguồn gốc từ tiểu cầu - Ngày đăng: 05-10-2022
Truyền PRP vào tử cung trước khi chuyển phôi trữ cải thiện tỉ lệ thai lâm sàng của bệnh nhân thất bại làm tổ nhiều lần - Ngày đăng: 05-10-2022
Thời điểm tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI) tối ưu sau khi chọc hút noãn: Một thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên - Ngày đăng: 05-10-2022
So sánh kiểu động học hình thái phôi giữa chu kỳ ICSI-AOA và ICSI đơn thuần - Ngày đăng: 05-10-2022
Phospholipase C zeta tương quan tới chỉ số tinh trùng tốt và sự thành công của quá trình thụ tinh ở những bệnh nhân điều trị vô sinh - Ngày đăng: 27-09-2022
Các gen in dấu H19, PEG3 và SNRPN có bị ảnh hưởng trong quá trình AOA không? - Ngày đăng: 27-09-2022
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Hội thảo trực tuyến, thứ bảy 21.9.2024 (11:00 - 13:00)
Năm 2020
Eastin Grand Hotel Saigon, thứ bảy 7.12.2024 và sáng chủ nhật ...
Năm 2020
Novotel Saigon Centre, Thứ Bảy ngày 2 . 11 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Kính mời tác giả gửi bài cộng tác trước 15.12.2024
Sách ra mắt ngày 15 . 5 . 2024 và gửi đến quý hội viên trước ...
Sách dự kiến phát hành đầu tháng 6.2024
FACEBOOK