Tin tức
on Saturday 02-07-2022 8:06am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Nguyễn Thị Cẩm Nhung – IVFMD Tân Bình
Hiện nay, vô sinh gây ảnh hưởng đến khoảng 50–80 triệu cặp vợ chồng trên toàn thế giới, trong đó vô sinh nam chiếm 30-50% các trường hợp. Mật độ tinh trùng thấp, khả năng di động kém, hình thái bất thường và tỷ lệ phân mảnh DNA cao của tinh trùng là những nguyên nhân hàng đầu gây vô sinh nam.
Các phương pháp lọc rửa tinh trùng thông thường như bơi lên, rửa đơn thuần hay ly tâm thang nồng độ là những lựa chọn an toàn và hiệu quả để chọn lọc tinh trùng di động tốt trong thực hành hỗ trợ sinh sản. Tuy nhiên, nhược điểm của các phương pháp này là bỏ qua những rào cản mà tinh trùng phải trải qua trong in vivo hay thậm chí có thể làm tăng tỷ lệ phân mảnh DNA do quá trình ly tâm. Trước đây, nhiều báo cáo đã chứng minh rằng tổn thương DNA tinh trùng có liên quan đến tỷ lệ sẩy thai và sự phát triển phôi kém trong các chu kỳ hỗ trợ sinh sản. Hơn nữa, mối tương quan giữa tỷ lệ phân mảnh DNA tinh trùng và tỷ lệ phôi lệch bội đã được ghi nhận. Do đó, các kỹ thuật để lựa chọn tinh trùng có tỷ lệ phân mảnh DNA (sperm DNA fragmentation – SDF) thấp đang ngày càng được quan tâm
Một số tác giả báo cáo rằng kỹ thuật chọn lọc tinh trùng bằng vi dòng chảy (microfluidic sperm sorting – MSS) cho phép lựa chọn những tinh trùng có độ di động cao với mức phân mảnh thấp hơn so với các kỹ thuật lọc rửa thông thường. Tuy nhiên, việc sử dụng MSS ở những bệnh nhân có SDF cao có giúp tăng tỷ lệ phôi nguyên bội hay không vẫn còn nhiều tranh cãi.
Do đó, mục đích của nghiên cứu này là xác định xem việc sử dụng kỹ thuật MSS có giúp cải thiện chất lượng phôi và tỷ lệ phôi nguyên bội ở các cặp vợ chồng có tiền sử thất bại làm tổ nhiều lần (repeated implantation failure – RIF) và tỷ lệ SDF cao trong chu kỳ hỗ trợ sinh sản.
Phương pháp: Đây là nghiên cứu quan sát hồi cứu được thực hiện giữa tháng 1/2016 đến tháng 5/2021 trên 312 chu kỳ PGT-A của 243 bệnh nhân với tổng cộng 688 phôi nang.
Tiêu chuẩn nhận: Thất bại hai chu kỳ IVF/ICSI. Tuổi vợ <43 tuổi, các chỉ số khối cơ thể <35 kg / m2, chu kỳ kinh nguyệt đều 25–35 ngày, hai buồng trứng bình thường dựa trên kết quả chụp cắt lớp âm đạo, không có hội chứng buồng trứng đa nang, không có lạc nội mạc tử cung và không có bệnh lý phụ khoa. Chồng có SDF > 30%.
Tiêu chuẩn loại: Bệnh nhân có karyotype bất thường, bất thường tử cung, nội mạc mỏng, máu khó đông. Nam giới mắc chứng azoospermia, OAT nặng, SDF <30%
Bệnh nhân được chia làm hai nhóm: Nhóm MSS thực hiện chọn lọc tinh trùng bằng vi dòng chảy gồm 92 chu kỳ với 310 phôi được PGT-A. Nhóm DGC thực hiện chọn lọc tinh trùng bằng ly tâm thang nồng độ gồm 151 chu kỳ với 378 phôi (bao gồm các bệnh nhân từ chối thực hiện vi dòng chảy do chi phí).
Kết quả: Các đặc điểm nền của hai nhóm tương đương nhau, bao gồm dữ liệu nhân khẩu học, tuổi ba mẹ, SDF; các thông số tinh dịch đồ, mức AMH; tổng số noãn chọc hút được và tổng số noãn MII, tổng số phôi ngày 3.
Không có sự khác biệt giữa hai nhóm về tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ nguyên bội, tỷ lệ sẩy thai, tỷ lệ trẻ sinh sống và tỷ lệ trẻ sinh sống tích lũy. Trong khi đó tổng số phôi nang (3,92 ± 1,96 so với 2,54 ± 1,46; p <0,001) và phôi nang chất lượng tốt (1,62 ± 1,47 so với 0,87 ± 1,36; p <0,001) ở nhóm MSS cao hơn đáng kể so với DGC. Số lượng phôi nang trên số noãn trưởng thành (0,62 ± 0,25 so với 0,43 ± 0,34 p: 0,01) cũng cao hơn đáng kể ở nhóm MSS so với nhóm DGC .
Kết luận: Sử dụng kỹ thuật MSS giúp làm tăng số lượng phôi nang chất lượng tốt; tuy nhiên, tỷ lệ phôi nguyên bội và sinh sống không có sự khác biệt so với kỹ thuật DGC.
Nguồn: Keskin, M., Pabuçcu, E. G., Arslanca, T., Demirkıran, Ö. D., & Pabuçcu, R. (2022). Does Microfluidic Sperm Sorting Affect Embryo Euploidy Rates in Couples with High Sperm DNA Fragmentation?. Reproductive Sciences, 29(6), 1801-1808.
Hiện nay, vô sinh gây ảnh hưởng đến khoảng 50–80 triệu cặp vợ chồng trên toàn thế giới, trong đó vô sinh nam chiếm 30-50% các trường hợp. Mật độ tinh trùng thấp, khả năng di động kém, hình thái bất thường và tỷ lệ phân mảnh DNA cao của tinh trùng là những nguyên nhân hàng đầu gây vô sinh nam.
Các phương pháp lọc rửa tinh trùng thông thường như bơi lên, rửa đơn thuần hay ly tâm thang nồng độ là những lựa chọn an toàn và hiệu quả để chọn lọc tinh trùng di động tốt trong thực hành hỗ trợ sinh sản. Tuy nhiên, nhược điểm của các phương pháp này là bỏ qua những rào cản mà tinh trùng phải trải qua trong in vivo hay thậm chí có thể làm tăng tỷ lệ phân mảnh DNA do quá trình ly tâm. Trước đây, nhiều báo cáo đã chứng minh rằng tổn thương DNA tinh trùng có liên quan đến tỷ lệ sẩy thai và sự phát triển phôi kém trong các chu kỳ hỗ trợ sinh sản. Hơn nữa, mối tương quan giữa tỷ lệ phân mảnh DNA tinh trùng và tỷ lệ phôi lệch bội đã được ghi nhận. Do đó, các kỹ thuật để lựa chọn tinh trùng có tỷ lệ phân mảnh DNA (sperm DNA fragmentation – SDF) thấp đang ngày càng được quan tâm
Một số tác giả báo cáo rằng kỹ thuật chọn lọc tinh trùng bằng vi dòng chảy (microfluidic sperm sorting – MSS) cho phép lựa chọn những tinh trùng có độ di động cao với mức phân mảnh thấp hơn so với các kỹ thuật lọc rửa thông thường. Tuy nhiên, việc sử dụng MSS ở những bệnh nhân có SDF cao có giúp tăng tỷ lệ phôi nguyên bội hay không vẫn còn nhiều tranh cãi.
Do đó, mục đích của nghiên cứu này là xác định xem việc sử dụng kỹ thuật MSS có giúp cải thiện chất lượng phôi và tỷ lệ phôi nguyên bội ở các cặp vợ chồng có tiền sử thất bại làm tổ nhiều lần (repeated implantation failure – RIF) và tỷ lệ SDF cao trong chu kỳ hỗ trợ sinh sản.
Phương pháp: Đây là nghiên cứu quan sát hồi cứu được thực hiện giữa tháng 1/2016 đến tháng 5/2021 trên 312 chu kỳ PGT-A của 243 bệnh nhân với tổng cộng 688 phôi nang.
Tiêu chuẩn nhận: Thất bại hai chu kỳ IVF/ICSI. Tuổi vợ <43 tuổi, các chỉ số khối cơ thể <35 kg / m2, chu kỳ kinh nguyệt đều 25–35 ngày, hai buồng trứng bình thường dựa trên kết quả chụp cắt lớp âm đạo, không có hội chứng buồng trứng đa nang, không có lạc nội mạc tử cung và không có bệnh lý phụ khoa. Chồng có SDF > 30%.
Tiêu chuẩn loại: Bệnh nhân có karyotype bất thường, bất thường tử cung, nội mạc mỏng, máu khó đông. Nam giới mắc chứng azoospermia, OAT nặng, SDF <30%
Bệnh nhân được chia làm hai nhóm: Nhóm MSS thực hiện chọn lọc tinh trùng bằng vi dòng chảy gồm 92 chu kỳ với 310 phôi được PGT-A. Nhóm DGC thực hiện chọn lọc tinh trùng bằng ly tâm thang nồng độ gồm 151 chu kỳ với 378 phôi (bao gồm các bệnh nhân từ chối thực hiện vi dòng chảy do chi phí).
Kết quả: Các đặc điểm nền của hai nhóm tương đương nhau, bao gồm dữ liệu nhân khẩu học, tuổi ba mẹ, SDF; các thông số tinh dịch đồ, mức AMH; tổng số noãn chọc hút được và tổng số noãn MII, tổng số phôi ngày 3.
Không có sự khác biệt giữa hai nhóm về tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ nguyên bội, tỷ lệ sẩy thai, tỷ lệ trẻ sinh sống và tỷ lệ trẻ sinh sống tích lũy. Trong khi đó tổng số phôi nang (3,92 ± 1,96 so với 2,54 ± 1,46; p <0,001) và phôi nang chất lượng tốt (1,62 ± 1,47 so với 0,87 ± 1,36; p <0,001) ở nhóm MSS cao hơn đáng kể so với DGC. Số lượng phôi nang trên số noãn trưởng thành (0,62 ± 0,25 so với 0,43 ± 0,34 p: 0,01) cũng cao hơn đáng kể ở nhóm MSS so với nhóm DGC .
Kết luận: Sử dụng kỹ thuật MSS giúp làm tăng số lượng phôi nang chất lượng tốt; tuy nhiên, tỷ lệ phôi nguyên bội và sinh sống không có sự khác biệt so với kỹ thuật DGC.
Nguồn: Keskin, M., Pabuçcu, E. G., Arslanca, T., Demirkıran, Ö. D., & Pabuçcu, R. (2022). Does Microfluidic Sperm Sorting Affect Embryo Euploidy Rates in Couples with High Sperm DNA Fragmentation?. Reproductive Sciences, 29(6), 1801-1808.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Hướng tiếp cận di truyền trong vô sinh nam - Ngày đăng: 02-07-2022
Dự đoán tương lai của kỹ thuật hỗ trợ sinh sản: Trí thông minh nhân tạo sẽ đưa chúng ta đi đến đâu? - Ngày đăng: 17-06-2022
So sánh giữa phôi nang N5 và n6 từ kết quả PGT-A - Ngày đăng: 17-06-2022
Dự đoán tỉ lệ phôi làm tổ chỉ dựa trên tham số thời gian hình thành phôi nang (tSB) - Ngày đăng: 17-06-2022
Tinh trùng Necrozoospermia: cơ chế bệnh sinh và hướng tiếp cận trong IVF - Ngày đăng: 17-06-2022
Kết quả lâm sàng của truyền huyết tương giàu tiểu cầu vào tử cung ở bệnh nhân bị thất bại làm tổ liên tiếp - Ngày đăng: 17-06-2022
Noãn thoái hóa sau ICSI không phải là một chỉ số để dự đoán tỷ lệ sinh sống ở trường hợp phụ nữ trẻ tuổi - Ngày đăng: 14-06-2022
Kết quả thụ tinh, nuôi Kết quả thụ tinh, nuôi cấy phôi và lâm sàng sử dụng môi trường nuôi cấy có nồng độ Lactate thấp cấy phôi và lâm sàng sử dụng môi trường nuôi cấy có nồng độ Lactate thấp - Ngày đăng: 09-06-2022
Tổng quan các yếu tố ảnh hưởng khả năng làm tổ của phôi nang nguyên bội sau IVF - Ngày đăng: 09-06-2022
Huyết tương giàu tiểu cầu cải thiện độ dày nội mạc tử cung và tỷ lệ trẻ sinh sống ở nhóm bệnh nhân thất bại làm tổ nhiều lần và nội mạc tử cung mỏng - Ngày đăng: 09-06-2022
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK