Tin tức
on Thursday 05-12-2019 2:32pm
Danh mục: Tin quốc tế
CVPH. Nguyễn Thị Hồng Châu – IVFMD Phú Nhuận
Phương pháp PGT ngày càng được sử dụng rộng rãi, tuy nhiên có rất ít nghiên cứu về những ảnh hưởng đến mẹ và trẻ sơ sinh sau PGT. Tính đến thời điểm hiện tại, tại Mỹ không có nghiên cứu nào so sánh kết quả lâm sàng giữa nhóm IVF/PGT và nhóm không PGT. Do đó Wendy Y. Zhang và cộng sự đã thự hiện một nghiên cứu đoàn hệ với mục đích đánh giá việc sinh thiết lá nuôi phôi trong nhóm IVF/PGT có ảnh hưởng bất lợi đến kết quả sản khoa và có làm tăng nguy cơ với trẻ sơ sinh so với nhóm không PGT hay không.
Phương pháp: Nghiên cứu được tiến hành trên tổng số 357 đứa trẻ được sinh ra từ TTTON. Trong đó 177 trẻ được sinh ra từ phôi có PGT và 180 trẻ sinh ra từ phôi không PGT. Các đánh giá bao gồm tỉ lệ tiền sản giật, nhau tiền đạo và các kết quả của trẻ sơ sinh bao gồm cân nặng và dị tật bẩm sinh.
Kết quả: Có sự gia tăng đáng kể về nguy cơ tiền sản giật trong số các trường hợp mang thai PGT so với không PGT với tỷ lệ mắc 10,5% so với 4,1%. Tỷ lệ nhau tiền đạo là 5,8% trong thai kỳ IVF PGT so với 1,4% trong IVF không có PGT. Ngoài ra ở nhóm PGT tỉ lệ mắc đái tháo đường thai kỳ và băng huyết sau sinh cũng cao hơn nhóm không PGT. Không có sự khác nhau đáng kể về tỷ lệ sinh non, nhẹ cân hoặc dị tật bẩm sinh ở cả 2 nhóm.
Kết luận: Cho đến nay, đây là nghiên cứu lớn nhất về kết quả của PGT đến mẹ và trẻ sơ sinh sau khi sinh thiết lá nuôi phôi. Có sự gia tăng gấp ba lần về tỷ lệ tiền sản giật liên quan đến sinh thiết lá nuôi phôi. Tuy nhiên hạn chế của nghiên cứu là về cỡ mẫu, do đó để đánh giá mức độ an toàn của PGT đối với mẹ và trẻ sinh ra cần phải có thêm nhiều nghiên cứu với cỡ mẫu lớn hơn.
Nguồn: Maternal and neonatal outcomes associated with trophectoderm biopsy. Fertility and Sterility (2019). https://doi.org/10.1016/j.fertnstert.2019.03.033
Các tin khác cùng chuyên mục:
Tiềm năng của phôi ngày 3 phân chia nhanh - Ngày đăng: 05-12-2019
Sự biểu hiện gen PGR và PTX3 của các tế bào cumulus ở những phụ nữ bị béo phì và có cân nặng bình thường sau khi kích thích buồng trứng - Ngày đăng: 05-12-2019
Tiềm năng của việc bổ sung các cytokine vào môi trường nuôi cấy phôi người in vitro: kết quả của một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng - Ngày đăng: 05-12-2019
Mối liên quan giữa sự sinh sản, methyl hóa DNA và tuổi sinh học - Ngày đăng: 05-12-2019
Mối liên hệ giữa thông số động học phôi tiền làm tổ và nhiễm sắc thể giới tính của phôi người - Ngày đăng: 05-12-2019
Dụng cụ đông lạnh mới cho số lượng giới hạn tinh trùng người - Ngày đăng: 05-12-2019
Liệu IVM rescue (rIVM) noãn giai đoạn túi mầm có ảnh hưởng xấu đến động học phát triển của phôi? - Ngày đăng: 05-12-2019
Nồng độ thủy ngân và lượng tiêu thụ loại cá ăn thịt liên quan đến chất lượng tinh dịch thấp - Ngày đăng: 05-12-2019
Procyanidine và độ di động tiến tới của tinh trùng - Ngày đăng: 05-12-2019
Hình dạng phồng đuôi đặc trưng là một yếu tố dự đoán phân mảnh dna trong tinh trùng người - Ngày đăng: 03-12-2019
Khi chỉ có một phôi khả dụng thì nên chuyển phôi vào ngày 3 hay tiếp tục nuôi cấy? - Ngày đăng: 03-12-2019
Mối liên hệ giữa bộ gen ty thể, sự phân mảnh dna và độ di động của tinh trùng - Ngày đăng: 03-12-2019
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK