Tin tức
on Tuesday 03-12-2019 9:24am
Danh mục: Tin quốc tế
Hiện nay, công nghệ hỗ trợ sinh sản đang có những tiến bộ đáng kể. Tuy nhiên, tỷ lệ thai vẫn ở dưới mức tối ưu. Ngay cả ở những bệnh nhân có yếu tố tiên lượng tốt và chất lượng phôi tốt, tỷ lệ thai vẫn thấp hơn lý tưởng (61% đến 70%). Có ba nguyên nhân được cho là gây thất bại làm tổ là vấn đề về sự phát triển của phôi, vấn đề với nội mạc tử cung và vấn đề về sự tương tác giữa phôi và nội mạc tử cung. Do các cơ chế chính xác xung quanh việc làm tổ vẫn chưa được làm rõ hoàn toàn, vì vậy những nghiên cứu ngày nay hướng tới việc cải thiện tỷ lệ làm tổ tập trung vào việc cải thiện chất lượng phôi, cũng như các yếu tố của đối tác nữ ảnh hưởng đến khả năng thụ thai của phôi. Để giảm tỷ lệ thất bại làm tổ liên quan đến phôi, nhiều nghiên cứu đã tập trung vào việc tìm ra ngày chuyển phôi tối ưu. Thông thường, chuyển phôi được thực hiện vào ngày 3; tuy nhiên, trong những năm gần đây, chuyển phôi vào ngày thứ 4-6 đã được thực hiện. Thay đổi này là do chuyển phôi giai đoạn phôi nang cho phép lựa chọn phôi có khả năng cao là euploid. Bên cạnh đó, phôi giai đoạn phôi nang có khả năng đồng bộ hóa sinh lý với nội mạc tử cung của người phụ nữ. Do đó, chuyển phôi vào ngày thứ 4-6 được giả định tăng tỷ lệ làm tổ và tỷ lệ thai. Mặc dù việc chuyển phôi giai đoạn ngày 4-6 đang được ủng hộ, nhưng ngày chuyển phôi tối ưu vẫn còn gây tranh cãi. Với sự có mặt của nhiều phôi vào ngày 3, chuyển phôi vào ngày 4-6 có thể mang lại kết quả lâm sàng cao hơn. Nhưng trường hợp chỉ có một phôi khả dụng thì lựa chọn nào là phù hợp vẫn đang là một câu hỏi lớn. Một số nghiên cứu trước đây thực hiện so sánh giữa chuyển phôi ngày 3 và ngày 4-6 nhưng chỉ tập trung vào kết quả trên mỗi chu kỳ thay vì trên số phôi. Do đó, Joyce S Xiao và cộng sự tiến hành nghiên cứu về trường hợp chỉ có một phôi ngày 3 thì việc chuyển phôi ngày 3 có đạt được tỷ lệ thai cao hơn so với nuôi cấy và chuyển phôi ngày 4-6 hay không.
Nghiên cứu hồi cứu trên 1384 phụ nữ chỉ có một phôi khả dụng ngày 3 sau khi điều trị IVF. Tổng số 1384 phôi ngày 3 được chia thành hai nhóm: 1017 phôi (73,5%) được chuyển vào ngày 3 và 367 phôi (26,5%) được tiếp tục nuôi cấy để chuyển phôi ngày 4-6. Trong 367 phôi ở nhóm nuôi ngày 4-6, phôi được nuôi cấy đến ngày 4-6 hoặc được đông lạnh vào ngày 3 và rã đông để nuôi phát triển đến ngày 4-6. Trong nhóm phôi ngày 3, 91 phôi (8,9%) bị loại, 29 phôi (2,9%) được đông lạnh để chuyển phôi ở chu kì sau và 897 phôi tươi (88,2%) được chuyển. Trong nhóm phôi ngày 4-6, có 119 phôi (32,4%) bị loại, 19 phôi (5,2%) được đông lạnh và 229 phôi tươi (62,4%) được chuyển. Trong nhóm ngày 3, 29 phôi được đông lạnh, trong đó 5 phôi (17,2%) được rã đông và bị loại, 22 phôi (75,9%) được rã đông và chuyển. Có một phôi (3,45%) vẫn đang đông lạnh tại thời điểm thực hiện nghiên cứu này và một phôi (3,45%) được chuyển đến một cơ sở IVF khác. Trong nhóm nuôi ngày 4-6, 6 phôi đông lạnh (31,6%) được rã đông và bị loại, 13 phôi (68,4%) được rã đông và chuyển phôi. Nhìn chung, 919/1017 phôi (90,4%) trong nhóm ngày 3 và 242/367 phôi (65,9%) trong nhóm nuôi ngày 4-6 đã được chuyển phôi (tươi và đông lạnh). Ngoài ra, để đảm bảo sự đồng nhất trong nhóm nuôi ngày 4-6, nghiên cứu đã phân tích so sánh 2 nhóm là chuyển phôi ngày 3 so với ngày 5.
Kết quả cho thấy, tỷ lệ thai sinh hóa, tỷ lệ thai lâm sàng và tỷ lệ trẻ sinh sống cao hơn đáng kể trong nhóm chuyển phôi ngày 3 so với nhóm nuôi cấy và chuyển phôi ngày 4-6 (lần lượt là 16,7% so với 9,5%, P = 0,001, 14,7% so với 6,8%, P <0,001 và 9,7% so với 4,4%, P = 0,002). Ngoài ra, chuyển phôi ngày 3 có tỷ lệ thai và tỷ lệ trẻ sinh sống cao hơn so với chuyển phôi ngày 5.
Nghiên cứu cho thấy, trường hợp chỉ có một phôi ngày 3 khả dụng, việc chuyển phôi ngày 3 dẫn đến tỷ lệ thai và tỷ lệ trẻ sinh sống cao hơn so với việc nuôi cấy và chuyển phôi vào ngày 4-6. Các nghiên cứu tiếp theo là cần thiết để làm sáng tỏ sự tương tác giữa nội mạc tử cung và phôi giai đoạn phân cắt để hiểu tại sao tử cung có thể là một nơi nuôi cấy tốt hơn so với phòng thí nghiệm.
CVPH. Nguyễn Thị Thu Thảo - IVFMD Bình Dương
Nguồn: Joyce S Xiao (2019), When only one embryo is available, is it better to transfer on Day 3 or to grow on?, Reproductive Healthcare Ltd, doi:10.1016/j.rbmo.2019.08.003.
Nghiên cứu hồi cứu trên 1384 phụ nữ chỉ có một phôi khả dụng ngày 3 sau khi điều trị IVF. Tổng số 1384 phôi ngày 3 được chia thành hai nhóm: 1017 phôi (73,5%) được chuyển vào ngày 3 và 367 phôi (26,5%) được tiếp tục nuôi cấy để chuyển phôi ngày 4-6. Trong 367 phôi ở nhóm nuôi ngày 4-6, phôi được nuôi cấy đến ngày 4-6 hoặc được đông lạnh vào ngày 3 và rã đông để nuôi phát triển đến ngày 4-6. Trong nhóm phôi ngày 3, 91 phôi (8,9%) bị loại, 29 phôi (2,9%) được đông lạnh để chuyển phôi ở chu kì sau và 897 phôi tươi (88,2%) được chuyển. Trong nhóm phôi ngày 4-6, có 119 phôi (32,4%) bị loại, 19 phôi (5,2%) được đông lạnh và 229 phôi tươi (62,4%) được chuyển. Trong nhóm ngày 3, 29 phôi được đông lạnh, trong đó 5 phôi (17,2%) được rã đông và bị loại, 22 phôi (75,9%) được rã đông và chuyển. Có một phôi (3,45%) vẫn đang đông lạnh tại thời điểm thực hiện nghiên cứu này và một phôi (3,45%) được chuyển đến một cơ sở IVF khác. Trong nhóm nuôi ngày 4-6, 6 phôi đông lạnh (31,6%) được rã đông và bị loại, 13 phôi (68,4%) được rã đông và chuyển phôi. Nhìn chung, 919/1017 phôi (90,4%) trong nhóm ngày 3 và 242/367 phôi (65,9%) trong nhóm nuôi ngày 4-6 đã được chuyển phôi (tươi và đông lạnh). Ngoài ra, để đảm bảo sự đồng nhất trong nhóm nuôi ngày 4-6, nghiên cứu đã phân tích so sánh 2 nhóm là chuyển phôi ngày 3 so với ngày 5.
Kết quả cho thấy, tỷ lệ thai sinh hóa, tỷ lệ thai lâm sàng và tỷ lệ trẻ sinh sống cao hơn đáng kể trong nhóm chuyển phôi ngày 3 so với nhóm nuôi cấy và chuyển phôi ngày 4-6 (lần lượt là 16,7% so với 9,5%, P = 0,001, 14,7% so với 6,8%, P <0,001 và 9,7% so với 4,4%, P = 0,002). Ngoài ra, chuyển phôi ngày 3 có tỷ lệ thai và tỷ lệ trẻ sinh sống cao hơn so với chuyển phôi ngày 5.
Nghiên cứu cho thấy, trường hợp chỉ có một phôi ngày 3 khả dụng, việc chuyển phôi ngày 3 dẫn đến tỷ lệ thai và tỷ lệ trẻ sinh sống cao hơn so với việc nuôi cấy và chuyển phôi vào ngày 4-6. Các nghiên cứu tiếp theo là cần thiết để làm sáng tỏ sự tương tác giữa nội mạc tử cung và phôi giai đoạn phân cắt để hiểu tại sao tử cung có thể là một nơi nuôi cấy tốt hơn so với phòng thí nghiệm.
CVPH. Nguyễn Thị Thu Thảo - IVFMD Bình Dương
Nguồn: Joyce S Xiao (2019), When only one embryo is available, is it better to transfer on Day 3 or to grow on?, Reproductive Healthcare Ltd, doi:10.1016/j.rbmo.2019.08.003.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Mối liên hệ giữa bộ gen ty thể, sự phân mảnh dna và độ di động của tinh trùng - Ngày đăng: 03-12-2019
Liệu AH có ảnh hưởng đến kết cục điều trị IVF? - Ngày đăng: 03-12-2019
Lão hoá và mối tương quan với chất lượng tinh trùng ở nam giới - Ngày đăng: 03-12-2019
Dự đoán sinh non trên thai kỳ song thai bằng chỉ số độ chắc cổ tử cung - Ngày đăng: 03-12-2019
Mối tương quan giữa đột biến gen PADI6 và phân chia bất thường ở phôi ngưng phát triển - Ngày đăng: 03-12-2019
Mối tương quan giữa quá trình giải nén nhân tinh trùng với tỉ lệ và chất lượng phôi phân chia - Ngày đăng: 03-12-2019
Lựa chọn phôi không xâm lấn: phân tích động học phát triển của tiền nhân đực và cái để dự đoán chất lượng phôi và tiềm năng sinh sống - Ngày đăng: 03-12-2019
Hiệu quả ức chế đỉnh LH sớm của GnRH antagonist so với Progestin ở nhóm bệnh nhân đáp ứng kém với kích thích buồng trứng: một nghiên cứu RCT - Ngày đăng: 03-12-2019
Hệ thống nuôi cấy phôi khép kín cải thiện sự phát triển phôi nang và kết quả lâm sàng khi trữ - rã, chuyển đơn phôi - Ngày đăng: 28-11-2019
Hình thái, độ phân mảnh DNA và khả năng liên kết với Hyaluronic acid của tinh trùng sau lọc rửa ở các môi trường thương mại khác nhau - Ngày đăng: 28-11-2019
Phân mảnh DNA tinh trùng không liên quan đến sự bất thường phôi và kết quả lâm sàng trong điều trị IVF/ICSI - Ngày đăng: 28-11-2019
Tác động của Bisphenol A (BPA) đến khả năng sinh sản, hệ thống sinh sản và sự phát triển - Ngày đăng: 26-11-2019
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK