Tin tức
on Tuesday 03-12-2019 9:09am
Danh mục: Tin quốc tế
Trong thụ tinh trong ống nghiệm, sau khi phôi đã làm tổ, vẫn có khoảng 30% trường hợp bị sẩy thai. Nguyên nhân chính gây sẩy thai ở các phôi này chủ yếu vẫn là do bất thường về nhiễm sắc thể, còn lại có thể là do lệch cửa sổ làm tổ, các nguyên nhân miễn dịch hoặc kết quả PGT-A không chính xác. Xét nghiệm di truyền phôi tầm soát lệch bội (PGT-A) vẫn đang được sử dụng phổ biến để đánh giá tình trạng nhiễm sắc thể của phôi. Tuy nhiên, PGT-A là một kỹ thuật xét nghiệm xâm lấn, phôi có thể bị tổn thương trong quá trình sinh thiết, cũng như việc lấy bớt các tế bào lá nuôi phôi (TE) làm xét nghiệm di truyền có thể ảnh hưởng đến khả năng làm tổ của phôi và việc hình thành nhau thai sau này, từ đó gây nên sẩy thai. Do vậy, các kỹ thuật xét nghiệm di truyền phôi không xâm lấn vẫn đang được nghiên cứu và phát triển song song với kỹ thuật sinh thiết TE. Một trong những phương pháp xét nghiệm không xâm lấn hiện có khá nhiều triển vọng là lựa chọn phôi thông qua phân tích động học phát triển của hai tiền nhân đực và cái (2PN) trong giai đoạn hợp tử ở phôi người. Hợp tử có 2 tiền nhân khác biệt nhau về kích thước từ 4µm trở lên có tỷ lệ ngừng phát triển cao hơn đáng kể so với hợp tử có 2 tiền nhân có kích thước khác biệt nhau < 4µm (Sadowy và cs., 1998). Ngoài ra, sự khác biệt về kích thước của 2 tiền nhân so với 2 tiền nhân có kích thước tương đồng còn gây nên tỷ lệ khảm và ngừng phát triển ở phôi ngày 3 (Munné và cs., 1998), giảm tỷ lệ tạo phôi nang (Zollner và cs., 2002; Scott và cs., 2003), phôi chậm phát triển và chất lượng phôi kém (Nagy và cs., 2003). Trên cơ sở này, Junko Otsuki và cộng sự (2019) tiếp tục tiến hành nghiên cứu về động học phát triển của quá trình thay đổi kích thước 2 tiền nhân liên quan đến sẩy thai ở thời điểm hình thành 2 tiền nhân và khi hòa màng 2 tiền nhân (breakdown of pronuclear membranes – PNMBD).
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu (6/2013 – 12/2016).
Đối tượng nghiên cứu: 213 chu kỳ chuyển phôi trữ đơn phôi nang (ICSI: n=112, IVF: n=101).
Phương pháp nghiên cứu: Các noãn đã thụ tinh được ghi lại bằng kỹ thuật time-lapse, sau đó phân tích động học của tiền nhân đực và tiền nhân cái.
Mục tiêu nghiên cứu chính: Sự khác biệt về kích thước giữa 2PN ở phôi cho ra trẻ sinh sống so với phôi không đạt được trẻ sinh sống được phân tích theo tuần tự kích thước từ giai đoạn PN sớm đến PNMBD.
Kết quả: Người ta nhận thấy rằng sự khác biệt về giá trị dưới đường cong (AUC - area under the receiver operating characteristic curve) giữa PN đực và cái ngay trước PNMBD là yếu tố dự báo tốt hơn về chất lượng phôi nếu sự khác biệt này nằm dưới giá trị ngưỡng đã biết (39,3µm2 đối với IVF; 40,0µm2 đối với ICSI). Kích thước của PN đực 8 giờ trước khi bắt đầu PNMBD phải lớn hơn PN cái. Chênh lệch kích thước giữa PN đực và cái 8 giờ trước PNMBD phải lớn hơn chênh lệch kích thước của chúng ngay trước PNMBD. Khi phôi bình thường thỏa các điều kiện trên, tỷ lệ sinh đối với IVF và ICSI lần lượt là 68,1% và 50,0%. Đối với các phôi còn lại, được xác định là bất thường theo các tiêu chí trên, tỷ lệ sinh là 9,4% đối với IVF và 4,2% đối với ICSI.
Kết luận: Nghiên cứu đã phát triển một phương pháp đánh giá phôi không xâm lấn bằng phương pháp phân tích động học của sự tăng trưởng PN đực và cái. Phương pháp này sẽ cho phép chúng ta chọn lựa phôi có tiềm năng cho ra em bé khỏe mạnh cao hơn. Tuy nhiên, tác giả nghiên cứu lưu ý các kết quả thu được trong nghiên cứu này chỉ có thể áp dụng ở các phụ nữ ≤ 40 tuổi. Do vậy, các kết quả này có thể sẽ không chính xác khi áp dụng ở các phụ nữ > 40 tuổi.
ThS. Nguyễn Hữu Duy – IVF Vạn Hạnh
Nguồn: Otsuki, Junko et al. Noninvasive embryo selection: kinetic analysis of female and male pronuclear development to predict embryo quality and potential to produce live birth. Fertility and Sterility, Volume 112, Issue 5, 874 – 881.
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu (6/2013 – 12/2016).
Đối tượng nghiên cứu: 213 chu kỳ chuyển phôi trữ đơn phôi nang (ICSI: n=112, IVF: n=101).
Phương pháp nghiên cứu: Các noãn đã thụ tinh được ghi lại bằng kỹ thuật time-lapse, sau đó phân tích động học của tiền nhân đực và tiền nhân cái.
Mục tiêu nghiên cứu chính: Sự khác biệt về kích thước giữa 2PN ở phôi cho ra trẻ sinh sống so với phôi không đạt được trẻ sinh sống được phân tích theo tuần tự kích thước từ giai đoạn PN sớm đến PNMBD.
Kết quả: Người ta nhận thấy rằng sự khác biệt về giá trị dưới đường cong (AUC - area under the receiver operating characteristic curve) giữa PN đực và cái ngay trước PNMBD là yếu tố dự báo tốt hơn về chất lượng phôi nếu sự khác biệt này nằm dưới giá trị ngưỡng đã biết (39,3µm2 đối với IVF; 40,0µm2 đối với ICSI). Kích thước của PN đực 8 giờ trước khi bắt đầu PNMBD phải lớn hơn PN cái. Chênh lệch kích thước giữa PN đực và cái 8 giờ trước PNMBD phải lớn hơn chênh lệch kích thước của chúng ngay trước PNMBD. Khi phôi bình thường thỏa các điều kiện trên, tỷ lệ sinh đối với IVF và ICSI lần lượt là 68,1% và 50,0%. Đối với các phôi còn lại, được xác định là bất thường theo các tiêu chí trên, tỷ lệ sinh là 9,4% đối với IVF và 4,2% đối với ICSI.
Kết luận: Nghiên cứu đã phát triển một phương pháp đánh giá phôi không xâm lấn bằng phương pháp phân tích động học của sự tăng trưởng PN đực và cái. Phương pháp này sẽ cho phép chúng ta chọn lựa phôi có tiềm năng cho ra em bé khỏe mạnh cao hơn. Tuy nhiên, tác giả nghiên cứu lưu ý các kết quả thu được trong nghiên cứu này chỉ có thể áp dụng ở các phụ nữ ≤ 40 tuổi. Do vậy, các kết quả này có thể sẽ không chính xác khi áp dụng ở các phụ nữ > 40 tuổi.
ThS. Nguyễn Hữu Duy – IVF Vạn Hạnh
Nguồn: Otsuki, Junko et al. Noninvasive embryo selection: kinetic analysis of female and male pronuclear development to predict embryo quality and potential to produce live birth. Fertility and Sterility, Volume 112, Issue 5, 874 – 881.
Từ khóa: Lựa chọn phôi không xâm lấn, time-lapse, sự phát triển tiền nhân, trẻ sinh sống, chuyển phôi trữ
Các tin khác cùng chuyên mục:
Hiệu quả ức chế đỉnh LH sớm của GnRH antagonist so với Progestin ở nhóm bệnh nhân đáp ứng kém với kích thích buồng trứng: một nghiên cứu RCT - Ngày đăng: 03-12-2019
Hệ thống nuôi cấy phôi khép kín cải thiện sự phát triển phôi nang và kết quả lâm sàng khi trữ - rã, chuyển đơn phôi - Ngày đăng: 28-11-2019
Hình thái, độ phân mảnh DNA và khả năng liên kết với Hyaluronic acid của tinh trùng sau lọc rửa ở các môi trường thương mại khác nhau - Ngày đăng: 28-11-2019
Phân mảnh DNA tinh trùng không liên quan đến sự bất thường phôi và kết quả lâm sàng trong điều trị IVF/ICSI - Ngày đăng: 28-11-2019
Tác động của Bisphenol A (BPA) đến khả năng sinh sản, hệ thống sinh sản và sự phát triển - Ngày đăng: 26-11-2019
Sự biến thiên nồng độ Progesterone vào ngày trưởng thành noãn trong chu kỳ IVF/ICSI ở những thời điểm khác nhau trong cùng một ngày - Ngày đăng: 26-11-2019
Bỏ cuộc trên hành trình điều trị hiếm muộn: vấn đề đáng quan tâm - Ngày đăng: 26-11-2019
Chẩn đoán nhau cài răng lược bằng đầu dò tần số cao và hình ảnh tăng sinh vi mạch - Ngày đăng: 28-11-2019
Hình ảnh thoi vô sắc có liên quan đến khả năng nguyên bội của phôi nang - Ngày đăng: 28-11-2019
Theo dõi nhau bám thấp ở tam cá nguyệt hai thai kỳ - Ngày đăng: 28-11-2019
Sử dụng tinh trùng từ tinh hoàn ở bệnh nhân phân mảnh DNA tinh trùng cao, từng thất bại ở chu kì ICSI với tinh trùng từ tinh dịch - Ngày đăng: 25-11-2019
Chất lượng noãn ở những bệnh nhân vô sinh do lạc nội mạc tử cung - Ngày đăng: 25-11-2019
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK