Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Tuesday 03-12-2019 9:16am
Viết bởi: Administrator
Danh mục: Tin quốc tế

Thai kỳ song thai chiếm đến 15-20% tổng số trường hợp sinh non và được xác định là một trong những yếu tố nguy cơ sinh non. Siêu âm đo chiều dài kênh cổ tử cung (CL) là một trong những phương pháp được sử dụng thường quy trong tầm soát nguy cơ sinh non, tuy nhiên có độ nhạy thấp đối với song thai. Gần đây, một dấu chỉ mới được giới thiệu nhằm tăng khả năng dự đoán sinh non ở nhóm thai kỳ song thai gọi là chỉ số độ chắc CTC - Cervical Consistency Index (CCI). Các nghiên cứu gần đây so sánh giá trị dự đoán sinh non của CCI và chiều dài kênh CTC ở nhóm dân số nguy cơ thấp hoặc nguy cơ cao sinh non đều cho thấy CCI dự đoán tốt hơn, mặc dù cả hai chỉ số này đều có giá trị rất hạn chế trong mục tiêu dự đoán.

Cách đo trong siêu âm đánh giá CCI
Nguồn: ISUOG

Một nghiên cứu nữa về đánh giá khả năng dự đoán sinh non trên nhóm song thai của CCI vừa công bố kết quả trên tạp chí ISUOG. Đây là nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu, khảo sát các thai phụ song thai, được siêu âm thường quy vào ba tháng giữa thai kỳ. Trong khoảng tuổi thai từ 18-23 tuần, bệnh nhân được đánh giá CCI bằng kỹ thuật siêu âm ngả âm đạo. CCI là tỷ lệ phần trăm của đường kính trước – sau kênh CTC (là đường thẳng vuông góc với chiều dài CTC ngay trung điểm đo theo trục dọc) khi nghỉ và khi đè ép tối đa bằng đầu dò siêu âm. Tổng cộng có 100 thai phụ mang song thai được khảo sát – chủ yếu là thai tự nhiên, sau đó loại 20% vì các nguyên nhân như truyền máu song thai, thai lưu, dị dạng tử cung, khâu CTC v.v…

Kết quả phân tích:

-Tuổi thai trung bình khi đánh giá CTC khoảng 19.6±1.4 tuần, chiều dài CTC trung bình khoảng 4.1±0.7 cm và CCI trung bình khoảng 67.9±10.3%. Tỷ lệ sinh non trước 37 0/7 và < 34 0/7 tuần lần lượt là 57.5% và 13.8%.

- Khi so sánh CCI và chiều dài CTC theo tuổi thai cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở chiều dài CTC ở những trường hợp sinh trước hoặc sau 34 0/7 tuần thai (3,9 ± 0,6 cm so với 4,2 ± 0,7 cm, p = 0,20) và trước hoặc sau 37 0/7 tuần (4,0 ± 0,6 cm so với 4,3 ± 0,7 cm, p = 0,05).

- Kết quả phân tích còn cho thấy không có sự liên quan giữa CCI và tỷ lệ sinh trước hoặc sau 34 0/7 hoặc 37 0/7 tuần (67,7 ± 11,8% so với 67,9 ± 10,2, p = 0,95 và 67,4 ± 9,9% so với 68,4 ± 10,9 %, p = 0,67).

- Cả CCI và chiều dài kênh CTC đều có ý nghĩa dự đoán sinh non kém, nhưng CCI có vẻ dự đoán tốt hơn chiều dài kênh CTC. Diện tích dưới đường cong ROC của CCI và chiều dài kênh CTC lần lượt là 0,488 và 0,378.

Nhóm nghiên cứu cũng đánh giá thêm, cho đến nay vẫn chưa có công cụ hiệu quả đánh giá nguy cơ sinh non trên thai kỳ song thai. Có thể những nghiên cứu trong tương lai về siêu âm khảo sát kênh CTC trong dự đoán sinh non cần kết hợp nhiều dấu hiệu.
 
Lược dịch từ:
Midtrimester cervical consistency index measurement and prediction of preterm birth before 34 and 37 weeks in twin pregnancies – Accepted Articles in ISUOG – Nov 2019. doi:10.1002/uog.21927
 
 
 
Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025

Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK