Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Monday 11-11-2019 11:49am
Viết bởi: Administrator
Danh mục: Tin quốc tế

CVPH. Nguyễn Thị Hồng Châu - IVFMDPN

Các công bố đầu tiên cho thấy bệnh nhân sau khi chuyển phôi ngày 7 không được sàng lọc di truyền cho tỉ lệ mang thai và sinh sống thấp hơn so với những bệnh nhân chuyển phôi ngày 5 hoặc 6. Gần đây nhất Whitney và cộng sự đã công bố có đến 35.9% phôi ngày 7 là lưỡng bội và có thể được sử dụng cho chuyển phôi. Carlos Hernandez-Nieto và cộng sự đã thực hiện nghiên cứu với vấn đề được đặt ra là đối với những phôi khi được nuôi đến ngày 7, các phôi được làm PGT-A và nếu kết quả là lưỡng bội thì những phôi này có được lựa chọn để chuyển cho bệnh nhân để làm tăng sự thành công trong lâm sàng không. Do đó mục đích của nhóm nghiên cứu là xác nhận tiềm năng của phôi ngày 7, vừa thực hiện PGT-A và đánh giá kết quả chuyển đơn phôi của các phôi lưỡng bội ngày 7 đã được đông lạnh.


 
Đây là một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu lớn nhất tại một trung tâm thụ tinh trong ống nghiệm từ ​​tháng 1 năm 2012 đến tháng 3 năm 2018. Tổng cộng có 25.772 phôi được sinh thiết TE và thực hiện PGT-A. Có 3 nhóm được nghiên cứu: nhóm phôi sinh thiết ngày 5 (n= 12.535), ngày 6 (n= 11.939) và ngày 7 (n=1298). Các kết quả lâm sàng của 3824 chu kỳ chuyển đơn phôi đông lạnh đã được đánh giá.

Kết quả: Tỉ lệ phôi lưỡng bội ngày 7 thấp hơn đáng kể so với phôi ngày 5 và ngày 6 (ngày 7 = 40.5%; ngày 5 = 54.7%; ngày 6 = 52.9%, p < 0.0001). Sau khi điều chỉnh theo tuổi, chỉ số AMH, BMI, chất lượng phôi và số lượng phôi sinh thiết, có một mối tương quan giữa phôi lệch bội được sinh thiết vào ngày thứ 7 khi so sánh với phôi sinh thiết ngày 5 (OR = 1,34, CI 95% 1,09-1,45, p = 0,001) và phôi sinh thiết ngày 6 (OR = 1,26, CI 95% 1,07 -1.16, p <0,001).

Kết quả phân tích 3824 chu kỳ FET, chuyển đơn phôi lưỡng bội (ngày 5: n = 2321 chu kỳ; ngày 6: n = 1381 chu kỳ và ngày 7: n = 116 chu kỳ) cho thấy sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm về tỉ lệ thai lâm sàng, sinh sống và tỷ lệ sẩy thai. Có sự giảm đáng kể tỷ lệ làm tổ, mang thai lâm sàng và sinh sống, nhưng không có mối tương quan đến tỉ lệ sẩy thai hoặc tỷ lệ đa thai ở những bệnh nhân sử dụng phôi sinh thiết ngày 7. Giai đoạn phát triển của phôi, hình thái phôi và mức bội thể của phôi là các yếu tố quan trọng để lựa chọn phôi chuyển cho tiềm năng làm tổ cao. Nghiên cứu này cho thấy phôi ngày 7 vẫn có thể sinh thiết thành công và nếu bệnh nhân có phôi không đủ tiêu chuẩn để sinh thiết TE vào ngày 5 hoặc ngày 6 thì có thể tư vấn để được nuôi đến ngày 7.
 
Nguồn: What is the reproductive potential of day 7 euploid embryos? Human Reproduction, pp. 1–10, 2019. doi:10.1093/humrep/dez129

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025

Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK