Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Monday 11-11-2019 11:45am
Viết bởi: Administrator
Danh mục: Tin quốc tế

CVPH. Nguyễn Thị Hồng Châu - IVFMDPN
 

Kĩ thuật ICSI được sử dụng phổ biến trong điều trị vô sinh, đặc biệt trong những trường hợp vô sinh nam với chất lượng tinh trùng kém. Nhiều báo cáo cho thấy hình dạng tinh trùng có liên quan trực tiếp đến kết quả ICSI bao gồm tỉ lệ thụ tinh và tỉ lệ mang thai. Trong kĩ thuật ICSI, tinh trùng được lựa chọn dưới kính hiển vi có độ phóng đại x400, do đó khó có thể chọn chính xác được tinh trùng nào có hình dạng bình thường. Do đó, kĩ thuật IMSI ra đời cho phép lựa chọn được hình dạng tinh trùng bằng việc sử dụng kính hiển vi có độ phóng đại lên đến hơn x6000. Một số nghiên cứu đã báo cáo rằng kĩ thuật IMSI có tỷ lệ mang thai, tỉ lệ sinh cao hơn và tỉ lệ sẩy thai thấp hơn so với kĩ thuật ICSI thông thường. Tuy nhiên, hiệu quả của kĩ thuật này vẫn còn nhiều tranh cãi. Do đó, Seda Karabulut và cộng sự đã thực hiện nghiên cứu với mục đích đánh giá hiệu quả của kỹ thuật IMSI so với kĩ thuật ICSI thông thường trên các nhóm bệnh nhân có nguyên nhân vô sinh khác nhau. Nghiên cứu so sánh các kết quả bao gồm tỉ lệ thụ tinh, mang thai, tỉ lệ phôi tốt, tỉ lệ làm tổ và tỉ lệ thai diễn tiến giữa kĩ thuật IMSI và kĩ thuật ICSI thông thường trong ba nhóm bệnh nhân để phân tích hiệu quả của IMSI.

Tổng cộng, có 142 chu kỳ (IMSI, n = 72; ICSI thông thường, n = 70) thực hiện trên những bệnh nhân đang điều trị vô sinh từ tháng 1 năm 2016 đến tháng 6 năm 2016. Bệnh nhân được chia thành 3 nhóm, nhóm đầu tiên bao gồm 54 cặp vợ chồng có nguyên nhân vô sinh khác nhau (do yếu tố nữ, nam, do cả hai vợ chồng hoặc không rõ nguyên nhân). Nhóm thứ hai bao gồm 45 cặp vợ chồng có yếu tố vô sinh nam trong đó có ít nhất một trong các thông số tinh dịch là bất thường theo tiêu chí của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO). Và nhóm thứ ba bao gồm 49 bệnh nhân thất bại làm tổ nhiều lần, với ít nhất hai chu kỳ ICSI không thành công trước đó. Tất cả các nhóm được chia thành hai nhóm nhỏ, một nhóm thực hiện kĩ thuật ICSI thông thường được gọi là nhóm r-ICSI và 1 nhóm thực hiện IMSI.

Kết quả:

- Không có sự khác biệt đáng kể giữa tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ phôi tốt, tỷ lệ mang thai, tỷ lệ làm tổ và tỷ lệ mang thai diễn tiến giữa 3 nhóm.

- Trong nhóm vô sinh nam, có sự gia tăng đáng kể về tỷ lệ thụ tinh (71% so với 55%, p< 0.05) và chất lượng phôi (81.6% so với 71.5%, p< 0.05) ở nhóm IMSI so với nhóm r-ICSI. Không có sự khác biệt đáng kể trong tỷ lệ mang thai và làm tổ, tỷ lệ mang thai diễn tiến trong nhóm IMSI so với nhóm r-ICSI.

- Trong nhóm thất bại làm tổ nhiều lần, tỷ lệ thụ tinh cũng tăng đáng kể trong nhóm IMSI (72% so với 59%, p< 0.05), và không có sự khác biệt về tỷ lệ phôi tốt. Tuy nhiên có sự gia tăng đáng kể tỷ lệ mang thai (32.1% so với 24.1%, p< 0.05) và thai diễn tiến trong nhóm IMSI (22% so với 16.6%, p< 0.05).

Dựa trên kết quả nghiên cứu, nhóm tác giả kết luận rằng phương pháp IMSI có thể cải thiện tỷ lệ thụ tinh và chất lượng phôi đối với nam giới có các bất thường về chỉ số tinh dịch. Ngoài ra, IMSI còn giúp tăng tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ mang thai, tỷ lệ thai diễn tiến ở những bệnh nhân thất bại làm tổ nhiều lần.

Nguồn: Intracytoplasmic morphologically selected sperm injection, but for whom? Zygote page 1 of 6. doi: 10.1017/S0967199419000297

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025

Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK