Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Saturday 21-09-2019 10:22am
Viết bởi: Administrator
Danh mục: Tin quốc tế
CVPH. Hồ Lan Trâm – IVMD Tân Bình 

Trưởng thành noãn trong ống nghiệm (IVM) được xem là một phương pháp “thân thiện” đối với các trường hợp mắc hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS) với liều lượng FSH kích thích thấp và không cần sử dụng hCG trigger, điều này giúp giảm thiểu các nguy cơ quá kích buồng trứng (OHSS). Bên cạnh đó, sự methyl hóa DNA được thiết lập tại các vùng gen in dấu quyết định sự biệt hóa tế bào mầm (gDMR) trong quá trình phát triển noãn và được duy trì trong suốt quá trình phát triển của phôi. Các nghiên cứu trên nhiều mô hình động vật đã cho thấy có một sự liên hiện giữa các phương pháp ART (kích ứng buồng trứng, nuôi cấy phôi tiền làm tổ) với sự biến đổi in dấu di truyền. Một số nghiên cứu hiện nay nhắm đến việc đánh giá tác động lên epigenetic của hai bước chính trong phác đồ nuôi cấy CAPA-IVM bao gồm bước “hoạt hóa” tiền trưởng thành noãn (Capacitation) và bước IVM. Một nghiên cứu gần đây của Saenz-de-Juano MD và cs thực hiện đánh giá mức độ methyl hóa DNA cũng như sự biểu hiện mRNA của các gen in dấu trong các mẫu phôi nang ở người có nguồn gốc từ noãn được điều trị CAPA-IVM so với các phôi có nguồn noãn từ phương pháp kích ứng buồng trứng thông thường (COS) ở đối tượng bệnh nhân mắc PCOS cùng độ tuổi.

Nghiên cứu được thực hiện trên các phôi COS từ 12 bệnh nhân PCOS được trải qua quá trình điều trị với phác đồ COS và 23 phụ nữ thực hiện CAPA-IVM, noãn sẽ được nuôi cấy tiền trưởng thành trong môi trường thích hợp (CAPA trong 24h) sau đó được thực hiện IVM (trong 30h) ở môi trường có chứa FSH và Amphiregulin. Sau khi ICSI, các phôi ngày 5 và 6 ở cả 2 nhóm sẽ được thủy tinh hóa và sử dụng cho việc phân tích methyl hóa DNA bằng phương pháp phân tích đánh dấu bisulphite adaptor - PABT hoặc phân tích biểu hiện gen sử dụng phương pháp RNA-seq cho từng phôi riêng lẻ. Như vậy, để phân tích methyl hóa DNA sẽ có 20 phôi CAPA-IVM được so sánh với 12 phôi COS; và để phân tích RNA-Seq sẽ có 15 phôi CAPA-IVM được so sánh với 5 phôi COS.

Kết quả:
- Kết quả so sánh cho thấy sự duy trì methyl hóa ở vùng gDMR ở hai nhóm CAPA-IVM và COS là như nhau trên quần thể bệnh nhân PCOS cùng độ tuổi.
- Phương pháp CAPA-IVM không gây nên sự thay đổi trong sự biểu hiện các gen in dấu ở các mẫu phôi nang.

Nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt về hiện tượng methyl hóa DNA và biểu hiện mRNA giữa các phôi được thực hiện CAPA-IVM so với các phôi được thực hiện COS ở hai quần thể bệnh nhân PCOS cùng độ tuổi. Phương pháp CAPA-IVM mở ra một hướng điều trị mới cho các bệnh nhân PCOS vì giảm thiểu nguy cơ bị OHSS cũng như không làm thay đổi tình trạng methyl hóa trên vùng gDMR. Tuy nhiên, việc theo dõi các bé được sinh ra sau khi điều trị CAPA-IVM là rất cần thiết.
Hạn chế nghiên cứu: các phôi từ nhóm COS được thu nhận từ nhiều loại môi trường nuôi cấy khác nhau. Các phôi từ nhóm CAPA-IVM được tạo ra từ cùng một mẫu tinh trùng hiến tặng. Mức độ methyl hóa DNA của gDMR ở các phôi nang người được phát triển tự nhiên in vivo vẫn chưa được biết tới.

Nguồn: DNA methylation and mRNA expression of imprinted genes in blastocysts derived from an improved in vitro maturation method for oocytes from small antral follicles in polycystic ovary syndrome patients. Hum Reprod. 2019 Sep 29;34(9):1640-1649. doi: 10.1093/humrep/dez121.
Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK