Tin tức
on Wednesday 25-09-2019 2:21pm
Danh mục: Tin quốc tế
CVPH. Trần Hà Lan Thanh-IVFMD Phú Nhuận
Noãn thoái hóa sau khi tiêm tinh trùng vào tế bào chất (ICSI) xảy ra với tỷ lệ 5% ‐15%, có thể do các yếu tố liên quan đến chất lượng noãn, như tính bở bào tương noãn, tính đàn hồi và tính mỏng manh rất dễ vỡ của màng bào tương. Thể tích phễu hình chữ V được tạo ra trong lúc ICSI là 1 dấu hiệu cho thấy được tính chất của màng bào tương noãn, các noãn có màng bào tương dễ vỡ thì không có hình phễu được tạo ra tại vị trí kim tiêm ICSI. Một nghiên cứu cho thấy rằng, ở noãn thụ tinh 2 tiền nhân (2PN) thường ghi nhận có thể tích phễu hình chữ V được tạo ra trong lúc ICSI lớn hơn so với noãn bị thoái hóa. Ngoài ra, một nghiên cứu khác báo cáo rằng tỷ lệ sống của noãn có tính đàn hồi màng kém thấp hơn với so với noãn có tính đàn hồi màng cao sau khi được Piezo-ICSI (là kỹ thuật ICSI được hỗ trợ bởi áp điện để tạo lỗ xuyên màng ZP và 1 lỗ trên màng tế bào chất noãn). Bên cạnh đó, đã có nghiên cứu cho thấy không có mối liên quan nào giữa tính rất dễ vỡ màng bào tương và sự phát triển của phôi. Ngược lại, một nghiên cứu đã phát hiện ra rằng tỉ lệ làm tổ sau khi chuyển phôi nang có nguồn gốc từ noãn có tính đàn hồi màng thấp sẽ thấp hơn so với phôi nang từ noãn có tính đàn hồi màng cao.
Hơn nữa, màng bào tương của noãn người metaphase II (MII) ở các nang riêng lẻ có thể tích dịch nang noãn (FF) thấp từ phác đồ GnRH antagonist có khả năng đàn hồi thấp trong quá trình ICSI, vì thế cho thấy mối tương quan giữa thể tích FF với tính đàn hồi màng bào tương noãn. Tuy nhiên, mối tương quan này ở noãn từ phác đồ GnRH agonist vẫn chưa rõ ràng.
Đã có một số nghiên cứu cho thấy tính bở bào tương và hình thái của noãn không liên quan đến phác đồ kích thích buồng trứng, trong khi đó chất lượng của ZP phụ thuộc vào phác đồ kích thích buồng trứng. Do đó, việc làm sáng tỏ tác động của phác đồ kích thích buồng trứng đối với khả năng đàn hồi của màng bào tương noãn là rất cần thiết.
Chính vì thế, nhóm tác giả tiến hành nghiên cứu hồi cứu này với mục đích là khảo sát mối tương quan giữa thể tích FF được hút từ các nang riêng lẻ với sự trưởng thành noãn, phân loại phức hợp tế bào cumulus hạt-noãn (COC), tính đàn hồi của màng bào tương, sự thụ tinh và sự phát triển của phôi sau khi sử dụng phác đồ GnRH agonist.
Kết quả
Hơn nữa, màng bào tương của noãn người metaphase II (MII) ở các nang riêng lẻ có thể tích dịch nang noãn (FF) thấp từ phác đồ GnRH antagonist có khả năng đàn hồi thấp trong quá trình ICSI, vì thế cho thấy mối tương quan giữa thể tích FF với tính đàn hồi màng bào tương noãn. Tuy nhiên, mối tương quan này ở noãn từ phác đồ GnRH agonist vẫn chưa rõ ràng.
Đã có một số nghiên cứu cho thấy tính bở bào tương và hình thái của noãn không liên quan đến phác đồ kích thích buồng trứng, trong khi đó chất lượng của ZP phụ thuộc vào phác đồ kích thích buồng trứng. Do đó, việc làm sáng tỏ tác động của phác đồ kích thích buồng trứng đối với khả năng đàn hồi của màng bào tương noãn là rất cần thiết.
Chính vì thế, nhóm tác giả tiến hành nghiên cứu hồi cứu này với mục đích là khảo sát mối tương quan giữa thể tích FF được hút từ các nang riêng lẻ với sự trưởng thành noãn, phân loại phức hợp tế bào cumulus hạt-noãn (COC), tính đàn hồi của màng bào tương, sự thụ tinh và sự phát triển của phôi sau khi sử dụng phác đồ GnRH agonist.
Kết quả
- Tỷ lệ tính đàn hồi thấp ở nhóm có FF <1 ml cao hơn đáng kể so với nhóm ≥1 ml.
- Tỷ lệ thụ tinh bình thường thấp hơn đáng kể ở nhóm <1 mL so với nhóm 2 ‐ <3 ml.
- Tỉ lệ tạo phôi nang thấp hơn ở nhóm <1 ml so với nhóm 3 ‐ <4 ml.
Như vậy, thể tích dịch nang có khả năng liên quan đến khả năng đàn hồi của màng bào tương noãn, thụ tinh và phát triển phôi nang của noãn metaphase II.
Nguồn: Association of follicular fluid volume with membrane stretchability of human metaphase II oocytes following the gonadotropin‐releasing hormone agonist protocol during intracytoplasmic sperm injection, Reprod Med Biol. 2018;17:283–288, doi: 10.1002/rmb2.12102
Nguồn: Association of follicular fluid volume with membrane stretchability of human metaphase II oocytes following the gonadotropin‐releasing hormone agonist protocol during intracytoplasmic sperm injection, Reprod Med Biol. 2018;17:283–288, doi: 10.1002/rmb2.12102
Các tin khác cùng chuyên mục:
So sánh phương pháp microfluid và li tâm đẳng tỉ trọng trong chuẩn bị tinh trùng cho IUI - Ngày đăng: 25-09-2019
Yếu tố ức chế ung thư máu trong huyết thanh và dịch nang noãn của phụ nữ bị hội chứng buồng trứng đa nang và mối tương quan của nó với kết cục IVF - Ngày đăng: 25-09-2019
Tăng tỷ lệ biến chứng sản khoa và chu sinh trong thai kỳ ở chu kỳ xin cho noãn và chuyển đơn phôi ở phụ nữ trẻ và khỏe mạnh: Một nghiên cứu đoàn hệ bắt cặp tiến cứu - Ngày đăng: 25-09-2019
Lựa chọn tinh trùng có khả năng gắn với Hyaluronan cho ICSI không giúp cải thiện tỷ lệ sinh sống - Ngày đăng: 06-11-2019
Sàng lọc và xử trí cường kinh ở trẻ vị thành niên - Ngày đăng: 23-09-2019
Mổ lấy thai có làm tăng nguy cơ tự kỷ ở trẻ? - Ngày đăng: 23-09-2019
IVF làm thay đổi tạm thời thượng di truyền của trẻ sơ sinh - Ngày đăng: 06-11-2019
Phôi nguyên bội được lựa chọn kết hợp với hệ thống time-lapse có kết quả chuyển đơn phôi vượt trội so với đánh giá hình thái thông thường - Ngày đăng: 23-09-2019
Thời gian trữ đông tinh trùng lâu dài không ảnh hưởng đến kết cục điều trị mong con - Ngày đăng: 18-09-2019
Đánh giá tiêu chuẩn chẩn đoán thai chậm tăng trưởng theo đồng thuận Delphi - Ngày đăng: 23-09-2019
Tổng quan hệ thống và phân tích gộp các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên so sánh hiệu Quả của 17‐Alpha‐Hydroxyprogesterone Caproate và giả dược trong dự phòng sinh non - Ngày đăng: 23-09-2019
Chỉ số mới trong siêu âm Doppler giúp dự đoán thai chậm tăng trưởng - Ngày đăng: 23-09-2019
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK